BA TIỂU LUẬN VỀ LÝ THUYẾT TÌNH DỤC CỦA SIGMUND FREUD

3318

Các bác sĩ  tâm thần gặp không ít những trường hợp liên quan  đến vấn đề tình dục, đôi khi không đơn giản và cần phải có chính kiến của mình.

Trong cuốn “Ba tiểu luận về lý thuyết tình dục” ( Trois essais sur la theorie de lasexualité ) của Sigmund Freud xuất bản lần đầu năm 1905 sẽ cung cấp cho các bác sĩ  tâm thần những quan niệm về tình dục dưới góc độ phân tâm học .

Chúng tôi sẽ lần lượt giới thiệu nội dung cơ bản của 3 tiểu luận này là :

  1. Những lệch lạc tình dục .

    Tình dục ở trẻ em

    3.      Những thay đổi ở tuổi dậy thì.

    Tiểu luận thứ nhất: Những lệch lạc tình dục

    Giải thích về nhu cầu tình dục của con người và động vật, trong sinh vật học người ta sử dụng giả thiết cho rằng có 1 xung động tình dục giống như để giải thích cảm giác đói là do có 1 xung động nuôi dưỡng. Tuy nhiên ngôn ngữ dân gian không có từ nào giống như từ “đói “ để nói về nhu cầu tình dục, trong khoa học sử dụng từ “Libido” .

    Trong dân gian hình thành những quan niệm về bản chất xung động tình dục và những đặc tính xung động tình dục không có ở trẻ em, nó chỉ xuất hiện ở tuổi dậy thì phù hợp với quá trình trưởng thành và chỉ biệu hiện ra khi có 1 sự quyến rũ không cưỡng chế nổi của người khác giới và mục tiêu của nó là sự giao hợp hay ít nhất cũng là toàn bộ những hành động hướng đến những  mục đích này.

    Chúng ta hoàn toàn có những lý do để tin rằng sự miêu tả này hoàn toàn không đầy đủ và nếu chúng ta phân tích sẽ nhận ra vô số những sai lầm, thiếu sót, những nhận định vội vàng thiếu cơ sở.

    Chúng ta bắt đầu bằng xác định 2 từ : người bộc lộ sự quyến rũ tình dục gọi là đối tượng tình dục, hành vi ở dó giải tỏa xung động tình dục được gọi là mục tiêu tình dục. Kinh nghiệm cho thấy có rất nhiều những lệch lạc tình dục liên quan đến đối tượng tình dục và mục tiêu tình dục . Chúng ta phải làm rõ quan hệ giữa những gì được đánh giá là bình thường và những lệch lạc trong đời sống tình dục.

    Những lệch lạc liên quan đến đối tượng tình dục :

    Chúng ta tìm thấy trong truyền thuyết sự giải thích đầy lãng mạn về xung động tình dục , rằng con người được thượng đế tạo ra bằng cách chia 2 nữa  nam và nữ. Cũng từ đó bằng tình yêu nam và nữ luôn có xu hướng nhập 2 nữa lại với nhau làm một. Vì thế, thật ngạc nhiên khi biết rằng có những người con trai đối tượng yêu không phải là nữ mà là nam,cũng như vậy có những người con gái mà đối tượng yêu của họ không phải là nam mà là nữ. Người ta gọi những trường hợp này là đồng tình luyến ái, hay hiện tượng đảo ngược. Những người đồng tình luyến ái thực sự rất nhiều, hơn nữa không dễ dàng để nhận diện ra họ.

    A.      Đồng tình luyến ái :

    Người ta phân biệt những người đồng tình luyến ái  ra 3 loại :

    Đồng tính luyến ái tuyệt đối : nghĩa là những người này chì có quan hệ tình dục với những người cùng giới, họ hoàn toàn dững dưng trước những người khác giới. Nếu là 1 nam thì hoàn toàn không có khả năng quan hệ tình dục với nữ.

    Đồng tính luyến ái  tương đối : Nghĩa là những người này có quan hệ tình dục cả với người cùng giới và khác giới.

    Đồng tính luyến ái  cơ hội: Nghĩa là những trường hợp đồng tính luyến ái  trong một số hoàn cảnh đặc biệt của môi trường bên ngoài, đặc biệt khi không có đối tượng tình dục bình thường.

    Những người đồng tính luyến ái xử sự khác nhau đối với những nhận định về đặc tính quan hệ tình dục mà họ thể hiện. Trong số họ, với quan hệ đồng tính luyến ái, một số cho rằng đó là biểu hiện bình thường, một số khác lại biểu hiện nỗi khổ tâm, coi đó là một biểu hiện bệnh hoạn mà họ không cưỡng lại được.

    Người ta cũng phân loại đồng tính luyến ái dựa theo những giai đoạn mà biểu hiện đồng tính luyến ái xuất hiện. Có những người có biểu hiện quan hệ đồng tính ở giai đoạn rất sớm nhưng cũng có những trường hợp quan hệ đồng tính luyến ái chỉ xuất hiện ở những giai đoạn xác định nào đó như trước hoặc sau tuổi dậy thì. Quan hệ đồng tính luyến ái có thể tồn tại suốt cuộc đời, cũng có thể nó sẽ biến mất ở một lúc nào đó hoàn toàn tự nhiên. Đặc biệt người ta cũng ghi nhận những trường hợp quan hệ tình dục chuyển qua đồng tính luyến ái sau khi đã trãi qua một kinh nghiệm đau buồn với đối tượng tình dục bình thường. Cuối cùng cũng có những trường hợp quan hệ đồng tính luyến ái chu kỳ, nghĩa là xen kẽ những giai đoạn quan hệ tình dục bình thường và những giai đoạn quan hệ đồng tính luyến ái.

    Nói chung những biểu hiện đồng tính luyến ái được phân loại trên độc lập với nhau. Trong những loại nặng, tức là những trường hợp đồng tính luyến ái hoàn toàn, người ta có thể thống nhất rằng biểu hiện này xuất hiện sớm và người đồng tính luyến ái cảm thấy hoàn toàn thoải mái với đặc tính tình dục này.

    Phần đông các tác giả không muốn gộp chung tất cả các loại đồng tính luyến ái kể trên là một. Họ nhấn mạnh những điểm khác nhau giữa chúng hơn là đưa ra những điểm tương đồng. Nhưng dù cho cách phân loại nào đi nữa thì chúng ta cũng gặp phải những trường hợp ranh giới , trung gian, do đó cần thiết phải xếp theo từng loại.

    Gia thuyết về đồng tính luyến ái. Đồng tính luyến ái lúc đầu được coi như là một sự thoái hóa thần kinh bẩm sinh . Điều  này được giải thích là  bởi vì các thầy thuốc quan sát được biểu hiện đồng tính luyến ái ở những người có rối loạn thần kinh đầu tiên. Khái niệm này chứa đựng 2 sự khẳng định mà chúng ta cần đi sâu phân tích : đồng tính luyến ái liên quan đến bẩm sinh. Đồng tính luyến ái  là biểu hiện của sự .

    Trước tiên là về sự thoái hóa : dùng từ “thoái hóa” một cách khinh suất gây ra những sự phản bác hay những tranh cãi không thống nhất . Người ta ngày càng ít dùng từ thoái hóa để chỉ tất cả những biểu hiện mà nguyên nhân của nó không chắc chắn gây ra từ một tổn thương hay nhiễm trùng, theo phân loại về thoái hóa cùa Maguan thì người ta có thể dùng từ thoái hóa trong cả những trường hợp mà chức năng của hệ thần kinh vẫn hoàn toàn bình thường. Vậy thì đâu là ý nghĩa và giá trị của từ thoái hóa theo quan niệm mới?  Người ta gần như không nói đến thoái hóa trong những trường hợp sau:

    1.      Trong những trường hợp không nhận thấy có những sự lệch lạc khác kết hợp .

    2.      Khi toàn bộ những chức năng và hoạt động của cá nhân không có những biểu hiện giảm sút  rõ ràng . Vì những lý do sau đây mà đồng tính luyến ái không phải có nguồn gốc từ thoái hóa :

    Người ta gặp những người đồng tính luyến ái không kết hợp với những biểu hiện lệch lạc rõ ràng khác.

    Những người đồng tính luyến ái vẫn giữ được toàn bộ sinh hoạt bình thường trong cuộc sống.

    Hiện tượng đồng tính luyến ái đã tồn tại từ thời nguyên thuỷ cho đến thời đại chúng ta và hiện tượng đồng tính luyến ái cực kỳ phổ biện trong những bộ lạc nguyên thủy hoang dã. Ở Châu Au một số vùng và một số tộc người hiện tượng đồng tính luyến ái cũng gặp nhiều hơn các vùng và các tộc người khác.

    Về tính bẩm sinh của đồng tính luyến ái – người ta chỉ coi đồng tính luyến ái có tính bẩm sinh đối với loại đồng tính luyến ái tuyệt đối. Ngoài ta đồng tính luyến ái cũng xuất phát từ nhiều lý do khác. Người ta dựa vào những điểm sau để bảo vệ quan niệm này.

    Người ta có thể nhận thấy rằng ở số đông những người đồng tính luyến ái một  dấu ấn, ngay cả đối với những  người đồng tính luyến ái tuyệt đối, ở giai đoạn đầu của cuộc sống mà quan hệ  đồng giới chỉ là sự kéo dài của dấu ấn đó.

    Ở số đông khác là do những hoàn cảnh đặc biệt như những đoàn nhà buôn dài ngày chỉ cùng 1 phái, sự chung chạ bừa bãi thời kỳ chiến tranh, trong nhà tù, sự lo sợ nguy hiểm khi quan hệ khác phái độc thân, bất lực tình dục …

    Thôi miên có thể làm mất đi đồng tính luyến ái .

    Một số khám xét kỹ lưỡng đã chỉ ra trong những trường hợp đồng tính luyến ái được cho là bẩm sinh , những sự cố được cho là ảnh hưởng quyết định đến tình trạng này.

    Sự khẳng định này có thể dể dàng chấp nhận nhưng giải thích thế nào đối với một số người ở chung một  hoàn cảnh , thậm chí ở ngay giai đoạn thơ ấu, có sự hiện diện của những sự quyến rũ cùng giới, thủ dâm cùng giới với nhau nhưng một  số trở thành đồng tính luyến ái , còn một số thì không hoặc có cũng chỉ tồn tại một  thời gian ngắn. Như vậy nguyên nhân bẩm sinh và mắc phải liên quan đến đồng tính luyến ái đều có cơ sở và nó phù hợp với từng trường hợp cụ thể.

    Giải thích về đồng tính luyến ái – dù cho người ta theo giả thuyết này hay giả thuyết khác , dù cho đồng tính luyến ái nguyên nhân bẩm sinh hay mắc phải thì bản chất của nó vẫn chưa được giải thích rõ ràng . Nếu theo thuyết bẩm sinh người ta phải chỉ ra trong đồng tính luyến ái cái gì là bẩm sinh chứ không phải chỉ bằng lòng với những giải thích thô thiển là khi sinh ra người ta đã mang một xung động tình dục gắn với một đối tượng đã xác định . Nếu theo thuyết mắc phải câu hỏi đạt ra là chì do ảnh hưởng của các biến cố trong đời sống mà hình thành nên đồng tính luyến ái mà không có sự tham gia, tác động của một  thành phần nào đó của riêng cá nhân ? Kinh nghiệm cho thấy cũng không phải như vậy .

    Vai trò của ái nam ái nữ- các tác giả Frauk Lydstou , Kiernan và Chevalier đưa ra một giả thuyết sau : theo giả thuyết này, con người sinh ra phải hoặc là nam, hoặc là nữ. Khoa học cho chúng ta biết những trường hợp có biểu hiện biến mất tất cả những đặc tính về giới tính , vì thế việc xác định giới tính trở nên rất khó khăn. Trước tiên trên lĩnh vực giải phẩu học , ở những người này cơ quan sinh dục cùng lúc cả nam lẫn nữ . Đặc biệt một số trường hợp cơ quan sinh dục nam và nữ cùng hiện diện bên cạnh nhau, người ta rất thường gặp có sự teo của một cơ quan khi thì bộ phận nam, khi thì bộ phận nữ. Những bất thường này giúp cho chúng ta hiểu rõ thêm về giải phẩu bình thường. Ở mức độ nào đó cấu trúc ái nam ái nữ về giải phẩu là bình thường . Ở tất cả các cá nhân nam lẫn nữ người ta đều tìm thấy những vết tích của cơ quan sinh dục khác giới. Chúng tồn tại dưới dạng sơ khai và đã mất hết chức năng hoặc đã thích ứng một  chức năng khác . Do đó từ lâu chúng ta đã thống nhất rằng nguồn gốc của  cơ quan sinh dục là một cơ quan lưỡng tính và trong quá trình phát triển, hoàn thiện đã trở thành cơ quan đơn tính nhưng vẫn tồn tại những dấu vết của cơ quan sinh dục khác giới.

    Chúng ta có thể mang quan niện này sang lĩnh vực tâm thần và để hiểu đồng tính luyến ái trong những biến thể của nó như 1 biểu hiện ái nam ái nữ về tâm thần . Để giải quyết vấn đề có thể chúng ta phải ghi nhận một sự trùng hợp thường xuyên giữa đồng tính luyến ái và những dấu hiệu về tâm thần và về thực thể của sự lưỡng tính.

    Nhưng trong thực tế, quan sát thấy quan niệm này không có cơ sở. Những sự liên quan giữa tính lưỡng tính về tâm thần và tính lưỡng tính về mặt giải phẩu không có gì mật thiết với nhau. Điều mà người ta nhận thấy trên những người đồng tính luyến ái là một sự giảm sút của xung động tình dục và một sự sự teo nhẹ của cơ quan sinh dục. Nhưng điều này không phải luôn luôn có thậm chí trong đa số những người đồng tính luyến ái không có biểu hiện này đến nỗi người ta phải đồng ý rằng lưỡng tính về mặt thực thể và đồng tính luyến ái là hai sự việc độc lập với nhau.

    Tóm lại: chúng ta cần ghi nhận 2 điều đối với sự giải thích về đồng tính luyến ái chúng ta phải tính đến có sự tham gia của một khuynh hướng lưỡng tính nhưng chúng ta không biết cụ thể về mặt giải phẩu.

    Chúng ta cũng thấy rằng có những biến động thay đổi xung động tình dục trong quá trình phát triển của nó.

    Đối tượng tình dục của những người đồng tính luyến ái – giả thuyết lưỡng tính về tinh thần cho rằng đối tượng tình dục của những người đồng tính luyến ái là trái ngược với đối tượng bình thường. Nam đồng tính luyến ái như một phụ nữ bi cuốn hút bởi vẻ cường tráng mạnh mẽ của vóc dáng và tinh thần phái nam. Anh ta cảm nhận mình là một phụ nữ và tìm kiếm đối tượng nam.

    Nhưng cho dù điều này đúng đối với số đông đồng tính luyến ái nam thì chúng ta cũng không thể xây dựng được một đặc tính chung cho tất cả nam đồng tính luyến ái. Rõ ràng rằng một số nam đồng tính luyến ái vẫn giữ những nét đặc trưng về thể chất của giới, họ biểu hiện rất ít những nét tính cách của phái nữ và thật ra vẫn tìm kiếm những nét nữ tính trong đối tượng của họ.

    Đồng tính luyến ái  nữ  ít phức tạp hơn. Những nữ đồng tính luyến ái luôn hiện diện những đặc tính cơ thể và tinh thần của phái nam và luôn tìm kiếm nét nữ tính trong đối tượng tình dục của họ.

    Mục đích tình dục của đồng tính luyến ái :điều cần biết là mục đích tình dục của những người đồng tính luyến ái hoàn toàn không giống nhau. Ở nam đồng tính luyến ái giao hợp qua hậu môn không phải là cách duy nhất. Thủ dâm luôn luôn là mục đích chiếm độc quyền và có một sự giảm sút mục đích tình dục đến mức không còn là một sự giao hợp bình thường ở nữ đồng tính luyến ái thì sự tiếp xúc của niêm mạc miệng đặc biệt thường thấy.

    Để kết luận, nếu chúng ta không thể giải thích được hiện tượng đồng tính luyến ái bằng những dữ liệu mà chúng ta có, thế nhưng chúng ta đã có thể đi đến những quan điểm mà đối với chúng ta rất quan trọng về việc chúng ta đã thiết lập sai lầm mối liên hệ mật thiết giữa xung động tình dục và đối tượng tình dục. Những trường hợp mà chúng ta coi là bất thường có một sự gắn kết giữa xung động tình dục và đối tượng tình dục mà chúng ta có nguy cơ không nhận thấy trong cuộc sống tình dục bình thường, ở đó xung động có vẻ đã chứa đựng trong nó đối tượng tình dục.

    Điều này giúp chúng ta tách biệt ở điểm nào đó giữa xung động và đối tượng. Nó cho phép tin rằng lúc đầu xung đột tồn tại độc lập với đối tượng và sự xuất hiện của xung động không hoàn toàn phụ thuộc ở các kích thích từ đối tượng.

    B.     Quan hệ tình dục đối với trẻ em và động vật.

    Trong khi những người đồng tính luyến ái chọn đối tượng tình dục một cách không bình thường là người cùng giới và cho thấy cảm tưởng ngoài biểu hiện đồng tính luyến ái ra họ không có thêm tật nào khác, ngược lại đối với những người lấy trẻ em làm đối tượng tình dục lúc đầu xuất hiện như những trường hợp lệch lạc đơn lẻ. Rất hiếm khi trẻ em là đối tượng tình dục duy nhất thường thường chúng chỉ là đối tượng của những cá nhân đã trở nên yếu, bất lực quyết định cách hành xử như vậy hay khi có một xung động tình dục cực điểm mà không có đối tượng thích hợp hơn. Tuy nhiên rất lý thú nhận ra rằng xung động tình dục chấp nhận một sự đa dạng đến vậy và nó có thể thoái biến về phần đối tượng của nó đến mức mà nó đòi hỏi, gắn bó chặt chẽ nhất với những đối tượng phù hợp với nó, chỉ đạt được mục đích trong những trường hợp cực điểm. Điều này cũng đúng đối với những trường hợp giao cấu với súc vật, nó không quá hiếm trong số những nông  dân, điểm này làm rỏ thêm sự lôi cuốn, sức hút tình dục vượt quá những giới hạn của loài.

    Vì những lý do đạo đức người ta muốn gán cho bệnh tâm thần trong những trường hợp lổi lầm trầm trọng của xung đột tình dục nhưng điều này có vẻ không thể được. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy trong những trường hợp này các rối loạn khác của xung đột tình dục không khác gì ở những người bình thường và những biến loạn này gặp trong tất cả các chủng tộc người và một vài tầng lớp xã hội. Cũng vậy việc lạm dụng tình dục trẻ em xảy ra với một tầng số đáng lo ngại ở các thầy giáo và các giám thị do họ có nhiều cơ hội dễ dàng.

    Ở những người bệnh tâm thần người ta cũng gặp những lệch lạc như trên nhưng ở mức độ cao hơn cũng như mang một ý nghĩa trở nên độc quyền và thay thế sự thỏa mãn tình dục bình thường.

    Những liên hệ lý thú này giữa những biến đổi khác nhau về tình dục có thể hình thành một loạt đi từ trạng thái bình thường đến bệnh tâm thần thực tế chứa đựng vô số những thông tin. Chúng ta có thể kết luận những biểu hiện của tình dục ngay cả trong cuộc sống bình thường nhiều lúc đã thoát khỏi ảnh hưởng của hoạt động thần kinh cao cấp điều này trong lĩnh vực nào đó được coi như bất bình thường về mặt xã hội và đạo đức, theo tôi nó cũng luôn xem là bất bình thường trong cuộc sống tình dục. Nhưng còn tồn tại rất nhiều bất thường tình dục trong khi đối với các lỉnh vực khácthì những bất thường chỉ ở mức trung bình và thừa hưởng những kinh nghiệm của nền văn minh chúng ta, điểm yếu rỏ ràng nằm ở lĩnh vực tình dục.

    Nhưng điều quan trọng đối với tôi chính là ở trong nhiều hoàn cảnh và đối với đại đa số những cá nhân thì giống và giá trị của đối tượng tình dục giữ vai trò thứ yếu. Cần kết luận rằng không phải đối tượng xây dựng nên những yếu tố chính yếu và hằng định của xung động tình dục .

    Những lệch lạc liên quan đến mục đích tình dục :

    Người ta cho rằng mục đích tình dục bình thường là sự giao hợp, đưa đến việc giải quyết sự căng thẳng tình dục và dập tắt xung động, thỏa mãn, cũng giống như làm mất đi cảm giác đói khi ăn. Tuy nhiên người ta đã gặp trong quá trình giao hợp được cho là bình thường nhất, những mầm mống mà khi phát triển lên trở thành những sự lệch lạc , mà người ta thường gọi là những biểu hiện loạn dâm. Có một số những hành vi trung gian trước giao hợp như là những sự sờ mó hay 1 số kích thích thị giác và người ta cho rằng những mức độ trung gian này là những thành phần của những mục đích tình dục sơ bộ. Những hành vi trung gian này một mặt kèm theo sự sung sướng, mặt khác làm tăng cường sự hưng phấn cần thiết để thực hiện hành vi giao hợp. Một trong những tiếp xúc này  là tiếp xúc của niêm mạc miệng mà dân gian gọi là hôn.  Nụ hôn hiện diện trong hầu hết các dân tộc trong đó đặc biệt những dân tộc được cho là văn minh thì nụ hôn đã đạt được giá trị tình dục cao, cho dù miệng không phải là bộ phận của cơ quan sinh dục mà là đường vào của ống tiêu hóa. Như vậy ở đây cũng có những điều cho phép chúng ta liên hệ đến những thói loạn dâm trong đời sống tình dục bình thường và có thể cung cấp cho chúng ta những yếu tố trong phân loại. Những thói loạn dâm bao gồm 2 loại:

    Dạng thứ nhất: bao gồm những hành vi tình dục không tuân thủ về mặt gỉai phẩu.

    Dạng thứ hai : là những sự dừng lại ở một số hành vi trung gian mà bình thường phải diễn ra nhanh để đạt đến mục đích cuối cùng là hành vi giao hợp.

    Những biểu hiện không tuân thủ về giải phẩu.

    Đánh giá quá cao đối tượng tình dục :

    Giá trị mà người ta gắn cho đối tượng tình dục để thỏa mãn xung động tình dục không còn giới hạn ở những bộ phận của cơ quan sinh dục như bình thường nữa, mà nó trãi rộng trên toàn bộ cơ thể của đối tượng, nhằm để chiếm đoạt tất cả những cảm giác từ đó phát ra. Sự đánh giá quá cao cũng liên quan mật thiết trong lĩnh vực tâm thần và nó biểu hiện ra từ một sự suy xét mù quán, thiếu những biện pháp đánh giá phù hợp , hoàn hảo đối tượng tình dục. Đặc biệt là trong tình dục  rất dễ  gợi ra một sự cả tin mù quán.

    Sự đánh giá quá cao đối tượng  tình dục này không thống nhất với mục đích tình dục giới hạn ở cơ quan sinh dục, dẫn đến nó dùng những bộ phận khác của cơ thể để thực hiện hành vi tình dục .

    Sự quan trọng của việc đánh giá quá cao đối tượng tình dục có thể được nghiên cứu đặc biệt ở nam giới vì họ tỏ ra thoải mái đối với những nghiên cứu về cuộc sống tình dục , trongkhi đối với nữ thì do sự thiếu cởi mở và do một số quy ước xã hội nên việc nghiên cứu đối với họ còn khá mù mờ .

    Làm tình bằng  niêm mạc miệng: sử dụng miệng như là cơ quan sinh dục được coi như loạn dâm khi dùng môi hay lưỡi tiếp xúc với bộ phận sinh dục của bạn tình. Nhưng khi hôn nhau thì không, bởi vì nụ hôn được xem là một mắt xích hướng đến hoạt động bình thường. Khi người ta ghê tởm một hành vi tình dục nào đó thì thường thường đã hình thành từ rất sớm khi xã hội loài người xuất hiện và người ta coi như  những hành vi loạn dâm . Người ta có cảm giác ghê tởm đối với những hành vi tình dục không phù hợp nhưng những giới hạn để quy định gán cho cảm giác này luôn luôn mang tính ước lệ. Nhưng chúng ta cần ghi nhận vai trò của sự ghê tởm này, nó đối nghịch với sự đánh giá quá cao tình dục đối tượng tình dục nhưng nó cũng có thể bị sự đánh giá quá cao đối tượng tình dục lấn át. Sự ghê tởm sẽ trở thành một sức mạnh để giới hạn lại những mục đích tình dục. Nói chung những sự loại bỏ bởi sự ghê tởm không bao gồm bộ phận sử dụng. Tuy nhiên không cón nghi ngờ gì nữa những cơ quan sử dụng của giới khác có thể gợi lên cảm giác ghê tởm và thái độ này là nét đặc trưng của tất cả các bệnh nhân Hysterie đặc biệt là nữ hysterie.

    Làm tình qua đường hậu môn :

    Chúng ta nhận thấy rõ ràng ở đây cảm giác ghê tởm đối với hành vi làm tình qua hậu môn như là mục đích tình dục. Và nó được gắn cho là một chứng loạn dâm . Đưa ra ý kiến này không phải lý luận rằng hậu môn là bộ phận của cơ quan bài xuất những chất cặn bã của cơ thể giống như những cô gái hysterie giải thích cảm giác ghê tởm đối với bộ phận sử dụng nam là để bài tiết nước tiểu.

    Vai trò tình dục của hành vi giao hợp qua hậu môn không giới hạn trong những  quan hệ tình dục giữa nam giới và cái ưu thế của hành vi này không đặc trưng cho đồng tính luyến ái. Có vẽ như ngược lại rằng dương vật của nam giới giữ vai trò giống như nó thể hiện trong hành vi giao hợp với nữ giới trong khi đó thủ dâm lẫn nhau lại là mục đích tình dục hay gặp ở đồng tính luyến ái.

    Sự quan trọng của một số phần khác của cơ thể về tình dục : sự mở rộng tình dục đến những phần khác của cơ thể không cho chúng ta thêm điều gì đặc biệt mới mẽ trong những dạng lệch lạc khác nhau và cũng không mang đến thêm điều gì mới về xung động tình dục. Điều này nó chỉ khẳng định một điều là có sự khát khao chiếm đoạt lấy toàn bộ cơ thể đối tượng tình dục. Nhưng ngoài sự đánh giá quá cao đối tượng này , ta thấy rằng trong những trường hợp không tuân thủ về mặt giải phẩu, một yếu tố mới chưa được biết đến do thiếu sự chỉ dẫn.

    Một vài phần của cơ thể như niêm mạc miệng, hậu môn  có tầm quan trọng trong tất cả các dạng quan hệ tình dục từ đó có thể coi những bộ phận này như cơ quan sinh dục. Chúng ta biết điều này do tìm hiểu quá trình phát triển của xung động tình dục và thông qua một số bệnh cảnh lâm sàng.

    Sự thay thế không phù hợp đối tượng tình dục

    Loạn dâm với đồ vật: đặc biệt điều quan tâm, trong những trường hợp này, đối tượng tình dục bình thường điều thay thế bằnh những vật khác có liên hệ với đối tượng tình dục và những vật này hoàn toàn không thích hợp với mục đích tình dục bình thường, để rõ ràng hơn trong sự phân chia, cần thiết phải nghiên cứu những lệch lạc này một cách hệ thống từ sự đánh giá quá cao đối tượng tình dục cho đến sự từ chối mục đích tình dục.

    Vật thay thế đối tượng tình dục thường là một bộ phận của cơ thể không thích hợp với mục đích tình dục như tóc , bàn chân, hay một vật vô tri vô giác của đối tượng như quần áo, trong thực tế những vật thay thế này có thể so sánh với việc thờ cúng linh vật, ở đó có sự hiện diện của thần linh.

    Sự chuyển tiếp hay những mức độ qua những hình thức quan hệ tình dục với đồ vật xác định sự chối bỏ mục đích tình dục và ở một số trường hợp để đạt được mục đích nó đòi hỏi vật thay thế phải có những đặc tính linh vật, màu tóc, một vài loại trang phục hay thậm chí một vài sự khiếm khuyết của cơ thể. Không có một lệch lạc nào ở giới hạn bệnh lý được quan tâm nhiều như những loại này, do những hiện tượng lạ kỳ mà nó biểu hiện. Nó cũng gợi ra một số  những  sự suy yếu của xu hướng dẫn đến mục đích tình dục bình thường, sự suy giảm chức năng của bộ máy sinh dục. Sự chuyển tiếp đến hoạt động tình dục bình thường ở trong hiện tượng đánh giá quá cao đối tượng tình dục có lẽ là một sự cần thiết về mặt tâm lý, là sự chiếm đoạt hoàn toàn những gì thuộc về đối tượng tình dục. Chính vì vậy một mức độ nào đó, loạn dâm  với đồ vật cũng thường gặp trong tình yêu bình thường ,nhất là trong giai đoạn phải lòng nhau khi đó mục đích tình dục còn chưa đạt tới hoặc chưa thể thỏa mãn. Người ta quan tâm đến những trường hợp bệnh lý ở đó, nhu cầu loạn dâm với đồ vật ở dạng cố định và thay thế mục đích tình dục bình thường, hoặc cao hơn là loạn dâm  với đồ vật tách rời hẳn khỏi 1 cá nhân nào đó và trở nên đối tượng tình dục duy nhất. Đó là những điều kiện khái quát để phân biệt những lệch lạc trong giới hạn bình thường về bệnh lý.

    Trong sự chọn lựa của loạn dâm  với đồ vật cũng như Binet là người đầu tiên nhận thấy và nhiều ví dụ người ta đã khẳng định có một ảnh hưởng dai dẳng của một ấn tượng tình dục cảm thấy mà  trong đa số trường hợp là từ giai đoạn ấu thơ. Điều này làm liên tưởng đến sự bền bỉ điển hình của tình yêu đầu ở những người bình thường .

    Trong những trường hợp khác, đó là một sự kết hợp những ý nghĩ mang tính chất biểu tượng , thường thường là vô thức, nó dẫn đến sự thay thế những đồ vật cho đối tượng. Không phải lúc nào chúng ta cũng có thể hiểu được ý nghĩa tượng trưng của các vật thay thế. Ví dụ như bàn chân thời cổ xưa là biểu tượng tình dục, điều này thấy ở trong truyền thuyết. Vì vậy có vẻ rằng những biểu tượng không phải lúc nào cũng độc lập với những ấn tượng tình dục nhận được trong thời thơ ấu.

    Sự dừng lại ở những mục đích tình dục sơ bộ:

    Sự hình thành những mục đích tình dục mới: tất cả những điều kiện, hoặc là bên ngoài, hoặc là bên trong có vẽ làm huỷ bỏ hoặc kềm hãm việc thực hiện mục đích tình dục bình thường như bất lực, những nguy hiểm gán cho hành vi giao hợp bình thường … để tạo điều kiện một cách tự nhiên cho sự trú ngụ của các hành vi chuẩn bị và từ đó tạo ra những mục đích mới có thể thay thế mục đích tình dục bình thường. Một nghiên cứu rất sâu chỉ ra rằng những mục đích tình dục mới này dù có kỳ cục thế nào chăng nữa thì cũng có vẽ đã biểu hiện ra trong quá trình giao hợp bình thường.

    Sờ mó và ngăm nhìn đối tượng tình dục :

    Sự sờ mó ở một mức độ nào đó ở tất cả hay ít nhất cũng ở loàn người là sự cần thiết để thực hiện mục đích tình dục bình thường. Những cảm xúc xuất phát từ sự tiếp xúc với làn da của đối tượng làm thức dậy sự thèm khát và làm gia tăng sự kích thích, sự sờ mó trong một giai đoạn không coi là sự lệch lạc miễn là sau đó tiếp tục những hành vi dẫn đến tình dục bình thường.

    Cũng tương tự, đối với những cảm nhận thị giác là sự phân tích sau cùng, có thể đưa đến những cảm giác xúc giác. Chính những ấn tượng thị giác đánh thức tình dục nhiều nhất và bằng thị giác là phương tiện để chọn lọc tự nhiên. Để làm tăng thêm vẽ đẹp của đối tượng . Trang phục dùng để che thân thể, nó phát triển cùng với nền văn minh của con người, kích thích sự tò mò tình dục làm cho người ta mong muốn bổ sung hoàn thiện đối tượng tình dục của mình bằng cách lột bỏ những bộ phận bị che dấu. Cũng như vậy ở một khía cạnh khác sự tò mò có thể biến thành nghệ thuật, đó chính là sự thăng hoa, khi mà sự hứng thú không còn chỉ tập trung vào bộ phận sinh dục mà trãi rộng ra khắp cơ thể.

    Ở một mức độ nào đó, đại đa số người bình thường dừng lại ở mục đích trung gian bằng cái nhìn mang ý nghĩa tình dục, nhưng cũng cái nhìn này có thể chuyển hướng phần nào đó tình dục sang hướng nghệ thuật. Trái lại nỗi khát khao nhìn ngắm trở thành thói loạn dâm. Khi nó chỉ giới hạn vào bộ phận sinh dục, khi nó không gây ra sự ghê tởm. Ví dụ như thói nhìn người ta đi cầu. Cuối cùng là khi thay vì chuẩn bị cho sự giao hợp thì nó lại chuyển hướng khác. Điều này gặp ở chứng loạn dâm phô trương những người đưa bộ phận sinh dục của mình ra mục đích là để người ta cũng đưa bộ phận sinh dục cho họ nhìn. Những thói loạn dâm  này có mục đích nhìn và được người ta nhìn cho chúng ta thấy một sự quan tâm đặc biệt, trên điểm này chúng ta sẽ đề cập đến kỹ hơn khi nói về một thói loạn dâm  khác, cần nhớ rằng trong những trường hợp này, mục đích tình dục biểu hiện cùng một lúc dưới 2 dạng chủ động và bị động.

    Sự e thẹn cũng như sự ghê tởm như đã đề cập ở phần trước, nó hàm chứa một sức mạnh chống đối lại thói loạn dâm  nhưng trong một vài lúc nó biểu hiện sự bất lực.

    Bạo dâm và loạn dâm thích đau:

    Sự ham muốn hành hạ đối tượng tình dục hay ngược lại mong muốn đối tượng hành hạ bản thân mình. Đây là loại loạn dâm  thường gặp nhất và cũng quan trọng nhất được đặt tên bởi Krafft-Ebing Sadisme hay Masochisme tuỳ theo nó chủ động hay thụ động.

    Liên quan đến bạo dâm rất dễ tìm thấy trong đời sống bình thường , những nguồn gốc bạo dâm. Tình dục của đa số đàn ông chứa đựng những yếu tố gây hấn, hoặc là  khuynh hướng muốn kiểm soát đối tượng tình dục, khuynh hướng mà trong sinh vật học giải thích bởi sự cần thiết đối với đàn ông sử dụng nếu muốn chiến thắng sự kháng cự của đối tượng tình dục, một phương tiện khác với sự quyến rũ. Bạo dâm không phải điều gì khác mà chính là một sự phát triển quá mức của thành phần gây hấn của xung động tình dục , nó đã trở nên độc lập và chiếm vai trò chính yếu.

    Từ Sadisme trong ngôn ngữ thông thường không có một ý nghĩa rõ ràng. Nó bao gồm những trường hợp có nhu cầu thể hiện sự bạo lực và thậm chí cả những trường hợp chỉ là một sự hăng hái mà thôi, cho đến những trường hợp bệnh lý trong những trường hợp này, sự thỏa mãn được điều kiện hóa bởi sự tùng phục đối tượng tình dục và những hành vi tàn bạo đối với đối tượng. Ở nghĩa hẹp của từ này trường hợp sau cùng mới có thể được coi là loạn dâm .

    Tương tự đối với loạn dâm  thích đau cũng bao gồm tất cả những mức độ có thể, một thái độ thụ động đối với đời sống tình dục hay đối tượng tình dục. Đỉnh điểm đạt được khi mà sự thỏa mãn phụ thuộc vào sự cần thiết có một nổi đau khổ vể thể xác hay tâm hồn mà đối tượng tình dục gây ra. Loan dâm thích đau có vẽ như đi xa hơn mục đích tình dục bình thường so với bạo dâm. Người ta tự hỏi xem có phải nó không bao giờ là một hiện tượng tiên phát, hay nó không bao giờ là một sự chuyển dạng của bạo dâm. Người ta luôn nhận thấy rằng nó chẳng phải cái gì khác mà chính là sự nối tiếp của bạo dâm. Nó chuyển hướng chống lại chính bản thân mình, lúc đó bản thân đã thay thế vị trí của đối tượng tình dục. Phân tích lâm sàng những cas loạn dâm  thích đau trầm trọng cho chúng ta nghĩ rằng đó là một sự mặc cảm kết quả của hàng loạt yếu tố ,  chúng phóng đại lên và gắn một thái độ thụ động nguồn gốc, mặc cảm bị thiến và cảm giác tội lỗi.

    Nổi đau khổ mà người ta trãi qua trong những trường hợp này giống như sự ghê tởm và sự e thẹn trong những trường hợp trước chúng ta đã đề cập đến, nó đối nghịch với tình dục. bạo dâm và loạn dâm thích đau chiếm một vị trí đặc biệt trong số những thói loạn dâm. Chủ động và thụ động hình thành đặc tính cơ bản  và những sự đối nghịch cấu tạo nên đời sống tình dục nói chung.

    Lịch sử của nền văn minh loài người cho chúng ta thấy sự tàn bạo và xung động tình dục gắn bó với nhau chặt chẽ. Nhưng để lâm sàng tỏ mối quan hệ này người ta nên bật lên tính gây hấn của tình dục. Một số tác giả còn đi đến khẳng định rằng yếu tố gây hấn thấy trong xung động tình dục chỉ là dấu vết của sự thèm muốn ăn thịt đồng loại. Điều cần nhắc lại là những phương cách thống trị để thỏa mãn một  nhu cầu lớn khác trước kia, theo sự phát triển của cá thể đóng một vai trò ở đây. Người ta cũng khẳng định rằng tất cả những nổi đau đều mang trong nó một khả năng của sự vui thú.

    Cái đặc trưng nhất của chứng loạn dâm  này là dạng chủ động và thụ động gặp ngay ở trên một cá thể. Trong quan hệ tình dục người nào lấy làm sung sướng khi bắt người khác chịu đựng sự đau khổ thi cũng có khả năng chịu đựng sự đau khổ mà nó cảm nhận. Một người bạo dâm luôn luôn cũng là người loạn dâm  thích đau. Điều này không ngăn cản phần chủ động hay phần thụ động của chứng loạn dâm  này chiếm ưu thế và đặc trưng hóa hoạt động tình dục của phần thắng thế.

    Chúng ta cũng nhận thấy rằng một số những khuynh hướng thường cấu thành từng cặp đối nghịch nhau , điều này đối với chúng ta có một ý nghĩa quan trọng trong lý thuyết. Hơn nữa rõ ràng rằng sự đối nghịch Sadisme-Masochism không thể chỉ giải bằng yếu tố gây hấn. ngược lại chúng ta cũng thấy những yếu tố đối kháng này trong hiện tượng lưỡng tình vừa có tính nam vừa có tính nữ trên cùng một cá thể.
    (còn tiếp)

Lược dịch: BS Trịnh Tất Thắng, Giám Đốc Bệnh viện Tâm thần

 

 

Chia sẻ