NHỮNG NGƯỜI SỬ DỤNG METHAMPHETAMINE CÓ NGUY CƠ TRẦM CẢM VÀ TỰ SÁT

214

Ngày 12/12/2007- Những người sử dụng methaphetamine trong dự án điều trị methamphetamine (Methamphetamine Treatment Project) mà ban đầu có điểm số thang lượng giá trầm cảm Beck cao và trước đây đã từng cố gắng tự sát thì có nguy cơ trầm cảm và hành vi tự sát về sau.

Một báo cáo thứ hai cũng sử dụng số liệu trong nhóm dân số này cho thấy các triệu chứng trầm cảm giảm với điều trị và nếu trầm cảm xuất hiện trong thời gian theo dõi thì sẽ kém tuân thủ điều trị lạm dụng chất cũng như có tiên lượng xấu.

Những phát hiện này thực hiện bởi các nhà nghiên cứu ĐH California, trong chương trình tái hòa nhập người lạm dụng chất Los Angeles được báo cáo trong hội nghị tâm thần do sử dụng chất của viện hàn lâm Hoa Kỳ lần thứ 18.

Những người sử dụng có nguy cơ cao
Ts Larissa J. Mooney nói: “thăm khám cẩn thận các triệu chứng tâm thần và lọc bệnh nhập viện cần phải được đảm bảo lúc tiếp nhận điều trị bệnh nhân methamphetamine”. Bà cho biết thêm người sử dụng methamphetamine kèm các yếu tố nguy cơ trầm cảm và tự sát có thể tiến triển tốt hơn nếu can thiệp tập trung sớm vào điều trị trầm cảm và ngăn ngừa tự sát.

Ts Mooney nói những người dùng chất kích thích đồng thời mắc trầm cảm thì có kết quả xấu hơn trong điều trị nghiện chất. Kết quả phân tích dữ liệu trong dự án điều trị methamphetamine gồm 526 người tham gia (60% là nữ), một thử nghiệm lâm sàng tại 8 cở sở, bệnh nhân điều trị ngoại trú nghiện methamphetamine giống mô hình Matrix (bao gồm tổng hợp nhiều phương pháp tâm lý xã hội) so với 8 phương pháp điều trị thường lệ.

Ban đầu, 526 đối tượng có độ tuổi trung bình là 36,2 và thường đã sử dụng methamphetamine 12 ngày trong 30 ngày trước. Người tham gia được phỏng vấn trước điều trị và 3 năm sau.

Trong quá trình theo dõi, 80 người (15,2%) đủ tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn trầm cảm nặng. Các yếu tố ban đầu có nguy cơ mắc trầm cảm gồm giới tính nữ, thang Beck trên 20 điểm (cho thấy tối thiểu là trầm cảm nhẹ), đã cố gắng tự sát trước đây, sử dụng metamphetamine đường tĩnh mạch, tự nói về bản thân có tiền sử trầm cảm nặng, và lạm dung rượu trước đây.

Tổng số 151 người (28,7%) đã từng cố gắng tự sát trước đây. Các yếu tố nguy cơ tự sát bao gồm đã từng tự sát hay thang Beck trên 20.

Tiến sĩ Mooney cho biết “ các yếu tố nguy cơ trầm cảm và tự sát có thể được xác định dễ dàng trên lâm sàng”. Bà còn nói việc tầm soát những yếu tố này có vai trò quan trọng trong kết quả điều trị.

Giảm trầm cảm, giảm sử dụng methamphetamine.
Ts Suzette Glasner-Edwards cho biết qua một phân tích dữ liệu liên quan cũng trong mẫu nghiên cứu  này, đã phát hiện các triệu chứng trầm cảm giảm đáng kể trong điều trị, đặc biệt những cá nhân ngưng sử dụng methamphetamine.

Bà cho biết thêm: trầm cảm là rối loạn đi kèm phổ biến nhất ở người lạm dụng chất kích thích, nhưng người ta ít biết về diễn tiến lâm sàng của trầm cảm trong điều trị lạm dụng methamphetamine hoặc ảnh hưởng của nó lên kết quả điều trị như thế nào.

Nhóm nghiên cứu nhận xét về các đối tượng lệ thuộc methamphetamine của nghiên cứu tham gia điều trị tâm lý xã hội: thứ nhất, triệu chứng trầm cảm sẽ giảm trong điều trị khi giảm sử dụng methamphetamine, và thứ hai, những người ban đầu đã có trầm cảm sẽ tuân thủ điều trị kém hơn, kết quả xấu hơn.

Các nhà nghiên cứu nhận thấy có một tỉ lệ hiện mắc vừa phải của trầm cảm nặng trong nhóm dân số nghiên cứu này. Theo họ, thang Beck giảm đáng kể ở những cá nhân ngưng sử dụng methamphetamine.

Điều trị trước trầm cảm có mối liên hệ nghịch đảo với tuân thủ điều trị. Một chẩn đoán trầm cảm sau 3 năm theo dõi đi kèm với các hậu quả xấu do dùng methamphetamine và tổn thương nhiều chức năng.

Ts Glasner-Edwards và Ts Mooney kết luận tầm soát trầm cảm được khuyến cáo tiến hành ở những bệnh nhân lệ thuộc chất.

Bs Nguyễn Thế Hùng, Khoa Nam BVTT.

Theo Marlen Busko. Depression and suicide risk identified in methamphetamine users. Medscape Medical News