Các thông tin nguy cơ không an toàn được thông báo chung khi thuốc được đưa ra lưu hành nên có thể các bác sĩ không đọc. Cách thức thông tin này có thể không phải là một phương pháp tốt , do đó cần có một hệ thống thông tin hiệu quả hơn tới bác sĩ điều trị.
Khảo cứu này thực hiện trên 4627 bác sĩ chuyên khoa nội thần kinh Hoa Kỳ, các câu hỏi đặt ra là kiến thức về theo dõi, nhận dạng các nguy cơ không an toàn mới của các AEDs:
• Phản ứng nhạy cảm cao ( hội chứng Stevens-Johnson và hủy hoại da) đối với carbamazepine xảy ra ở bệnh nhân châu Á ( có gien di truyền haplotype nhiều hơn ). FDA đã khuyến cáo nên sàng lọc gien này trước khi sử dụng carbamazepine.
• Ý tưởng hoặc hành vi tự sát khi dùng các loại AEDs mới. FDA đã cho biết nguy cơ tự sát tăng gấp 2 lần ở những bệnh nhân bắt đầu được điều trị với 11 AEDs mới đồng thời với các khuyến cáo cần thiết.
• Nguy cơ dị tật bẩm sinh ở trẻ con của những bà mẹ dùng divalproex. Các nhà nghiên cứu cho biết nguy cơ này khoảng 10,7 %.
• Nguy cơ suy giảm khả năng nhận thức ở trẻ con của những bà mẹ dùng divalproex trong thời gian mang thai. Các nhà nghiên cứu ghi nhận chỉ số IQ giảm từ 6 – 9 điểm.
Ngoài ra, các bác sĩ chuyên khoa thần kinh còn được hỏi có biết hay không lacosamide không được cảnh báo an toàn với hộp đen trên hộp thuốc (?).
Các nhà nghiên cứu phân tích 505 câu trả lời đại diện cho tất cả các nhóm hành nghề, kết quả 66,5 % bác sĩ nam tuổi trung bình 48,9 có 49,5 % hành nghề đơn lẻ hoặc theo nhóm điều trị ít nhất 100 bệnh nhân động kinh mỗi năm (54 %), số năm hành nghề từ 1 – 52 năm.
Kết quả khoảng 1 / 5 câu trả lời (17 – 27 % ) không nhận thức cảnh báo không an toàn. Các bác sĩ chuyên khoa thần kinh điều trị nhiều bệnh nhân động kinh hiểu biết nhiều hơn các bác sĩ chuyên khoa thần kinh khác về nguy cơ không an toàn của các AEDs.
Khoảng 70 % bác sĩ (chuyên khoa nội thần kinh) nhận thức khuyến cáo sàng lọc haplotype ở bệnh nhân động kinh người Châu Á trước khi dùng carbamazepine. 29,1 % bác sĩ bắt đầu điều trị động kinh với carbamazepine và chỉ có 22,5 % bác sĩ thông báo cho bệnh nhân test sàng lọc haplotype.
FDA thông báo cần sàng lọc nhưng các bác sĩ có cảm giác không rõ ràng vì không biết thông tin sàng lọc gien thế nào và giải thích thế nào về test sàng lọc như phải chờ đợi 2 ngày và tăng thêm chi phí và sẽ dùng thuốc khác trong thời gian này thế nào. (Hiện tại một số cơ sở điều trị đã trang bị phương tiện test sàng lọc gien nhưng chưa đưa vào hoạt động, có lẽ cũng lý do trên).
80,6 % bác sĩ nhận thức cảnh báo nguy cơ bệnh nhân tự sát khi dùng các thuốc chống động kinh mới. 70,1 % bệnh nhân động kinh được tư vấn về nguy cơ tự sát trong thời gian 3 năm đầu điều trị, tuy nhiên chỉ có 60,2 % bệnh nhân nhận định đúng nguy cơ này.
Một số bác sĩ không đồng tình với cách làm thế nào mà FDA kết luận các AED liên quan nguy cơ tự sát. Kết quả một nghiên cứu nổi bật của FDA là 11 loại thuốc chống co giật phát hiện ra rằng nguy cơ tự sát ở bệnh nhân dùng các loại thuốc trên tăng gấp 2 lần so với placebo. Kết quả trên không mang tính dịch tễ, không tương quan với dân số và nguy cơ này rất thấp.
Chỉ có 33,5 % bệnh nhân nhận thức nguy cơ gia tăng dị tật bẩm sinh và khoảng 1/2 số bệnh nhân này (48,9 % ) có chỉ số thông minh thấp do người mẹ được điều trị với divalproex.
Nhiều bác sĩ không nhận thức về nguy cơ dị tật bẩm sinh rất cao và nguyên nhân giảm chỉ số thông minh ở con của các bà mẹ dùng valproic acid. Gần 1/3 bác sĩ trả lời vấn đề kiểm soát nguy cơ dị tật và nhận ra là không có khung đen cảnh báo nguy cơ tác hại của lacosamide.
Hầu hết các thông tin sử dụng thuốc an toàn là từ các cơ quan chuyên ngành: tạp chí y văn 967,1 %), đồng nghiệp hoặc bạn bè (53,1 %) và từ các chương trình đào tạo (52,9 %). Các cơ sở điều trị tư nhân ( phòng mạch tư) nhận được thông tin (cảnh báo) từ các hãng dược, trong khi đó các bác sĩ ‘chuyên môn cao’ nhận được thông tin từ tạp chí, đồng nghiệp và bạn bè.
Tại Việt Nam, chăm sóc và điều trị động kinh được giao cho ngành tâm thần từ… rất lâu vì có hệ thống nhân sự khám và cấp phát thuốc chống động kinh (chủ yếu) miễn phí nên những kết quả cảnh báo trên có thể rất có ích đối với các bác sĩ chuyên khoa tâm thần. Theo dõi các hội thảo báo cáo khoa học chung về nội dung sử dụng thuốc chống động kinh, chúng tôi nhận thấy vấn đề các tác giả Hoa Kỳ đặt ra cũng rất cần thiết đối với các bác sĩ chuyên khoa nội thần kinh.
Có thể nói, hiểu biết về các nguy cơ dị ứng carbamazepine, nguy cơ dị tật bẩm sinh do các valproate, các nguy cơ khác do phenyltoin, phenobarbital của bệnh nhân động kinh và thân nhân chưa cao. Một số bác sĩ chuyên khoa da liễu vẫn thường xuyên gặp các trường hợp dị ứng carbamazepine. Các nguy cơ khác có thể xảy ra nhiều hơn (ví dụ đối với phenobarbital) do chính các loại thuốc này và do tương tác thuốc vì vẫn còn nhiều bệnh nhân được kê toa phối hợp thuốc chống động kinh khác hoặc dùng thêm nhiều loại thuốc chuyên khoa khác.
Chắc chắn người bệnh động kinh còn mong mỏi bác sĩ chuyên khoa sử dụng thuốc an toàn và hiệu quả nhiều hơn nữa.