ẢO GIÁC – Bệnh Viện Tâm Thần TP. HCM //3xdata.com Thầy Thuốc Tận Tâm Sun, 10 Dec 2023 17:00:04 +0000 vi hourly 1 //wordpress.org/?v=4.7.5 ẢO GIÁC – Bệnh Viện Tâm Thần TP. HCM //3xdata.com/ao-giac/ //3xdata.com/ao-giac/#respond Mon, 14 Aug 2017 10:08:29 +0000 //bv-rumit.rhcloud.com/?p=2495 M?ĐẦU Ảo giác là khi có tri giác hay cảm giác nhưng hoàn toàn không có một kích thích ngoại lai hay nội tại nào tác động lên nhánh tận của thần kinh cảm giác. Người bệnh b?lẫn lộn vì cho là có gì đó tác động t?xung quanh hoặc ngay trong […]

The post ẢO GIÁC appeared first on Bệnh Viện Tâm Thần TP. HCM.

]]>
M?ĐẦU
Ảo giác là khi có tri giác hay cảm giác nhưng hoàn toàn không có một kích thích ngoại lai hay nội tại nào tác động lên nhánh tận của thần kinh cảm giác. Người bệnh b?lẫn lộn vì cho là có gì đó tác động t?xung quanh hoặc ngay trong cơ th?h? Ảo giác không ch?ảnh hưởng lên 5 giác quan mà còn kích thích tất c?các tín hiệu tri giác t?các cơ quan vận động hoặc thính giác (như ảo giác vận động) đến các cơ quan nội tạng (d?cảm).

Các bệnh lý tâm thần (đặc biệt là tâm thần phân liệt (TTPL), cũng như các rối loạn khí sắc và sa sút), các tổn thương não b?khu trú, các bệnh thần kinh (một s?th?động kinh hoặc Migraine), s?phong b?giác quan, thiếu ng?và dùng độc chất đều có th?là nguyên nhân tất c?các dạng ảo giác, t?những cảm giác thô sơ đến các âm thanh trò chuyện. Các bệnh nhân b?ảo giác trong các bệnh tâm thần hiếm khi nhận ra đây là những hiện tượng không có thật, h?không ý thức được s?rối loạn, trong khi đó các bệnh nhân ảo giác do bệnh thần kinh nói chung lại thích ứng được và nhận ra đó là các hiện tượng bệnh lý, mặc dù các ảo giác biểu hiện như thật.

Sau phần lịch s?vắn tắt, ta s?tuần tự?tiếp cận v?lâm sàng của ảo giác, mô hình thực nghiệm ảo giác, các gi?thuyết giải thích và cuối cùng là các khía cạnh tr?liệu.

LỊCH S?/strong>
Thuật ng?« ảo giác » có nguyên gốc t?tiếng la tinh (hallucinatio : mê sảng, hoang tưởng) đã có trong tiếng pháp t?th?k?17. Năm 1838 chính ESQUIROL đã quyết định s?dụng chúng trong thuật ng?y khoa.

Đến tận cuối th?k?18, người ta vẫn không ngừng định nghĩa v?t?ảo giác, đã có lúc ảo giác còn bao gồm c?s?khiếm khuyết giác quan (chứng nhìn đôi chẳng hạn) cùng với một s?hiện tượng tâm thần gây ra các tri giác lệch lạc. Thí d?như ALEXANDRE CRICHTON (1798), đã lẫn lộn giữa ảo giác và ảo tưởng  khi đưa ra định nghĩa sau: « là một sai lầm của tâm trí khi ý nghĩ như  thật các đối tượng b?nhìn nhận một cách sai lầm mà không kèm một khiếm khuyết tổng quát nào v?mọi mặt trí tu?».

Một s?tác gi?cùng thời đã bắt đầu chấp nhận một cách s?dụng khá nghiêm ngặt v?các t?này : SAGAR gọi ảo giác là « các tri giác sai lầm », BOISSIER DE SAUVAGE (1768) dịnh nghĩa những người b?ảo giác là « coi hình ảnh như cảm giác thật, coi s?tưởng tượng hoặc huyền tưởng như những cảm giác thật ».

Chính ESQUIROL đã cho t?ảo giác định nghĩa mà ta còn s?dụng đến ngày nay : «  s?tin tưởng cá nhân và không lay chuyển v?một cảm giác được nhận thức trong khi lúc đó xung quanh không có một đối tượng tương t?nào gây cảm giác ấy tác động lên các giác quan ». Ông coi ảo giác như là một trong những triệu chứng tạo nên hoang tưởng « có th?cùng có ?nhiều bệnh lý khác ». Ông đưa ra một t?l?cao của ảo giác trong các bệnh lý tâm thần « Trong 100 bệnh nhân lưu trú thì ít nhất 80 có ảo giác ». ESQUIROL cho rằng ảo giác là một tiên lượng không tốt, mặt khác ông cũng nói rằng có những trường hợp ảo giác đơn thuần không hoang tưởng. Dựa trên quan sát lâm sàng, ESQUIROL phân loại ảo giác theo giác quan, phân biệt chúng với ảo tưởng, tình trạng mê mộng hoặc miên hành và trạng thái xuất thần.

1890 BALL định nghĩa lại một cách đơn giản quan niệm của ESQUIROL : « ảo giác là một tri giác không đối tượng ».

1846 BAILLARGER phân biệt giữa ảo giác tâm lý giác quan (có s?tham gia các giác quan) với ảo giác tâm thần (tiếng nói bên trong, nhận thức không có cảm giác đi kèm, nhận thức xuất hiện đơn độc). ?th?k?19, ảo giác được xem như một cảm giác bất thường do tác động của tâm trí trên giác quan, rồi như một họat động tâm thần quá mức hoặc sau này như một sản sinh bất thường v?ngôn ng?

Gi?thuyết này rất phát triển vào cuối th?k?19, cùng với s?phát hiện các thùy não chịu trách nhiệm v?ngôn ng? Năm 1861 BROCA chứng minh rằng tổn thương hồi thứ?3 thùy trán có th?làm mất ngôn ng? rồi WERNICK 1874 cho thấy tổn thương hồi th?1 thùy thái dương có th?làm mất kh?năng hiểu ngôn ng?. T?những hiểu biết đó các tác gi?đã phát triển ý tưởng rằng những vùng ngôn ng?này nếu hoạt động quá mức s?gây nên hoạt động ngôn ng?quá mức, có nghĩa là ảo giác « ảo giác bao gồm s?kịch phát bệnh lý các trung tâm ngôn ng?của v?não, tương t?với cơn động kinh gây kịch phát ?vùng vận động v?não ».

TAMBURINI k?đó đã hình thành gi?thuyết vận động của ảo giác. Theo đó các trung tâm cảm giác v?não có th?có thêm chức năng vận động. S?kích hoạt bệnh lý các trung tâm này làm cho bệnh nhân có cảm giác rằng mình đang nghe t?mình nói hoặc những người khác nói với mình.

Các ý tưởng của TAMBURINI rất được hoan nghênh tại Pháp, nơi mà MAGNAN (1893) phát triển thêm rằng các rối loạn này có th?đưa tới một dạng tạm gọi như nh?trùng hóa nhân cách, nhân cách thật của bệnh nhân nằm ?thùy trán, trong khi đó nhân cách bệnh lý nằm ?vùng thính giác, được giải tỏa, t?đó chúng có th?trao đổi với nhân cách thật của bệnh nhân lúc đó đóng vai trò như một khán gi? Gi?thuyết này là tiền đ?cho CLÉRAMBAULT sau này mô t?hội chứng tâm thần t?động. Khác biệt giữa ESQUIROL là coi ảo giác như một thành phần của hoang tưởng còn CLÉRAMBAULT thì ảo giác là nền tảng t?đó mới có hoang tưởng.

SÉGAS dựa trên mô hình của CHARCOT cho rằng có nhiều trung tâm kết nối với nhau, ông phân biệt 2 loại : ảo giác tâm thần vận động (tương t?ảo giác tâm thần của BAILLARGER) và ảo giác tâm thần giác quan. SÉGAS cho rằng loại th?nhất là những đợt « kích hoạt lan tỏa thần kinh » có nguồn gốc trung ương, nếu đồng thời đó có thêm các hoạt động ?vùng ngôn ngữ?đ?mạnh thì bệnh nhân s?có cảm giác nghe được một tiếng nói rõ ràng, loại th?hai tạo những hình ảnh cảm giác, xúc giác đến t?ngoại biên. Khái niệm « kích hoạt lan tỏa thần kinh » trước đó đã được HELMOLTZ (1866) đưa ra dưới khái niệm « sao chép » của việc điều hành vận động, theo đó hình ảnh của một vận động có th?tồn tại độc lập với chính vận động thật s?. Gi?thuyết này của SÉGAS s?còn được vận dụng sau này thì những phần sau s?trình bầy.

EY sau này hiệu chỉnh lại định nghĩa của BALL : « ảo giác là tri giác mà hoàn toàn không có đối tượng cảm nhận ». Ông còn chẩn đoán phân biệt ảo giác với các rối loạn khác: « ảo giác cơ bản khác với ảo tưởng vì ảo tưởng là s?sai lầm v?v?một s?vật có thật : đó có th?là tri giác sai một hiện tượng cảm nhận (ảo tưởng th?giác, đánh giá v?c?động, kích thước của vật..), hoặc tri giác sai bản chất hoặc ý nghĩa của vật (tưởng như nghe thấy một giai điệu nhưng thật ra ch?là một tiếng động, nhìn thấy hình chúa b?đóng đinh trên thập giá nhưng thật ra ch?là một vệt trên tường). Nếu ảo tưởng phong phú, ta gọi chúng là ảo tưởng d?thường (Pareidolie) ».

Ngoài vấn đ?tư liệu, việc khảo sát lịch sử?ảo giác cho phép, sau này bằng những phương tiện thăm dò, kiểm nghiệm lại các gi?thuyết. Thật vậy, t?giữa th?k?20 đã có th?kiểm nghiệm được liệu « trung tâm vận động phối hợp » có hoạt hóa không bằng cách ghi hình tình trạng nói thầm thanh quản của bệnh nhân, rồi k?đến s?phát triển của thăm dò hình ảnh chức năng não, người ta s?biết được ảo giác có tương quan với những hình ảnh tâm thần và thật s?là các hồi não cảm giác hoặc ngôn ngữ?có b?hoạt hóa khi có ảo giác không ? K?thuật mới đã cho phép chúng ta tr?lời các câu hỏi trên s?được trình bày ?những phần sau.

LÂM SÀNG
Ảo giác do nguyên nhân tâm thần

Ao giác là một thành phần quan trọng trong triệu chứng học các loạn thần cấp và mãn tính dù BLEULER ch?coi chúng là triệu chứng ph?trong tâm thần phân liệt (TTPL). Đối với SCNEIDER (1955), ảo thanh tranh luận, tiếng nói bình phẩm các c?ch?của bệnh nhân và các cảm giác b?chi phối được coi là những triệu chứng hàng đầu của TTPL. Ngoài ra theo DSM (t?phiên bản lần 3) ảo giác được xem là những triệu chứng đặc trưng cho TTPL. Hơn nữa ta có th?chẩn đoán TTPL ch?dựa trên duy nhất triệu chứng tiếng nói bình phẩm hoặc tiếng nói trao đổi với nhau (có ?20% bệnh nhân).

Mặt khác, ảo giác không là đặc trưng cho TTPL. Ta còn thấy chúng ?bệnh nhân hưng cảm và ít hơn ?trầm cảm. Khác với triệu ch?ng âm tính, các thầy thuốc tâm thần  d?thống nhất với nhau v?giá tr?của triệu chứng ảo giác mặc dù chúng ph?biến nhưng đôi lúc không d?phát hiện.

Ao giác tâm thần và cảm giác tâm thần, thường là ảo thanh, có t?50-80% bệnh nhân TTPL. Chúng luôn gây khó chịu, mắng nhiếc, đôi khi ra lệnh và bình phẩm hành vi và ý nghĩ của bệnh nhân. Chúng có th?đưa tới các hậu qu?trên hành vi, gây lo âu hoặc bạo hành, t?hủy (khoảng 25% bệnh nhân TTPL t?sát dưới ảnh hưởng của ảo giác). Đôi khi nhiều tiếng nói tranh luận xem những gì bệnh nhân phải nghĩ hay phải làm, không buông tha làm cho cuộc sống bệnh nhân không th?chịu nổi. Ao th?hiếm gặp trong TTPL (khoảng 15%),  vì vậy chúng có cơ ch?chính trong loại cuồng sảng mê mộng.

Đối với các loạn thần khởi phát muộn, ảo thính cũng chiếm ưu th?nhưng ảo th?và ảo xúc cũng khá ph?biến (có t?61 tới 44%). Mặt khác, ảo giác là triệu chứng hàng đầu trong loạn thần ảo giác mãn tính.

Trong s?các bệnh nhân b?rối loạn khí sắc, ảo thính có trong 25% trường hợp (nói chung mang tính đe dọa hay buộc tội), ảo th?trong 20% (nói chung mang tính khủng khiếp : bóng ma, chết chóc, địa ngục..) và ảo khứu trong 18% (mùi khó chịu). Ta cũng có th?thấy các lệch lạc v?giác quan trong các cơn lo âu kịch phát.

Ảo giác không nguyên nhân tâm thần
Ngoài các nguyên nhân tâm thần, một s?các bệnh lý, các trạng thái phong b?giác quan và còn tình trạng biến đổi ý thức có th?đi kèm với ảo giác. Thường thì khi ảo giác ngoài bệnh tâm thần, chúng thường thoáng qua, định hình, bệnh nhân thấy chúng khác thường. Ao th?ph?biến nhất trong các loạn tâm thần có căn nguyên nhiễm độc, chuyển hóa hoặc thực th?

Các căn nguyên v?giác quan
Các tình trạng như b?phong b?giác quan (thường có ảo giác thô sơ và đôi khi có trạng thái như mê mộng), thiếu ng?kéo dài(ảo th?, điếc mắc phải (có ảo thính, như ESQUIROL đã nêu), khiếm th?(10-30% người mù có ảo th?, đoạn chi (DESCARTE đã mô t?chứng chi ma, hoặc những cơn đau ?chi đã b?thiết đoạn).

Ao th?còn gặp ?các bệnh nhân b?thoái hóa hoàng điểm. Cơn thoáng hình ảnh xuất hiện ?th?trường mắt đã b?thoái hóa.

Hội chứng CHARLES BONNET được một nhà t?nhiên học thụy sĩ mô t?(ông này chuyên gia v?sinh sản vô tính ?rệp cây), ông  đã ghi nhận 1760 lượt ảo th?thần bí và thú v??người ông 89 tuổi. Trong hội chứng này, bệnh nhân phê phán được ảo giác và h?không h?b?suy giảm ý thức, chúng thường đa dạng, đôi khi ảo giác dạng thu nh?(liliputienne), nhiều mầu sắc, chuyển động. Chúng đi kèm với bệnh lý mắt (tăng nhãn áp, cườm?

Tình trạng suy giảm ý thức
Các ảo giác gi?thức gi?ng? luôn có tính khó chịu và thường là ảo th? có th?gặp ?người bình thường khi vào giấc ng? Nó từng được SARTRE nhắc tới trong tác phẩm Tưởng tượng. Rất ph?biến ?những bệnh nhân b?chứng ng?rũ. Ảo giác gi?thức gi?ng?thỉnh thoảng cũng có ?người bình thường lúc thức giấc.

Những trạng thái biến đổi ý thức, gần tương t?giấc ng? d?gây nên các tác động th?giác (thôi miên, kích động, xuất thần? đã được BRIERRE DE BOISMONT mô t? Stress nghiêm trọng, đe dọa cuộc sống cũng có th?gây các hiện tượng ảo giác.

Ảo giác gây nên bởi các loại ma túy gây ảo giác
Acide lysergique diethylamide (LSD) (một thành phần của alkaloide nấm cựa gà) được HOFFMAN vào 1938. nghĩ rằng mình đã tìm được một thuốc hưng thần, ông t?thực nghiệm và mô t?như sau : « một chuỗi những hình ảnh muôn mầu và bất tận » cũng như  cảm nhận những kích thích t?các nguồn cảm giác bất bình thường (nhìn thấy tiếng nói, thấy hình ảnh tách thành từng động tác như trong máy quay tách động tác). Có vài trường hợp ảo giác th?giác từng gặp có th?xuất hiện lại sau vài tháng hoặc vài năm sau khi dùng LSD (s?tr?lại của LSD). Thỉnh thoảng những người s?dụng LSD có th?có các ảo giác dạng đồng vận (ảo th?nhiều mầu sắc sau nghe một tiếng động mạnh hoặc nghịch thường). Các hiện tượng này có th?do v?não quá nhậy cảm.

Phencyclidine (PCP), Peyotl (xương rồng Mehicô), Mescaline (alkaloide của peyotl), Psilocybine (tinh chất nấm gây ảo giác ?Mêhicô), hoặc hiếm hơn Tétrahydrocannabinol(THC) và mới hơn là 3-4-méthylène-dioxy-metamphétamine (Ectasy) do có th?gây các th?giác quái d?hoặc nhiều mầu sắc nên một s?ngh?sĩ như ARTAUD, BAUDELAIRE, RIMBAUD dùng đ?gây cảm hứng hoặc như nhà tâm thần học MOREAU DE TOURS đã t?thực nghiệm. Tuy nhiên tác dụng của những loại này rất khác nhau tùy theo liều s?dụng và cá nhân người dùng.

Ảo giác do thầy thuốc
Một s?thuốc cũng có th?gây nên ảo giác (ch?yếu là th?giác), đặc biệt là các nhóm có tác dụng kháng cholinernergique mạnh, một s?thuốc cao huyết áp như Clonidine, một số?thuốc chống Parkinson đồng vận Dopamine, một s?giảm đau nhóm Moorphine (Fentanyl), Digoxine, nhóm chẹn Beta, Cimétidine, một s?kháng Histimine th?th?H2, một s?thuốc gây mê, sau cùng là nhóm thuốc gây êm dịu như Benzodiazépine hoặc thuốc ng?khi dùng quá liều hoặc ngược lại khi ngưng thuốc đột ngột. Ảo th?có th?nhìn mầu vàng (có th??nhóm dùng Digitalin, mà theo một s?tác gi? có ái lực với các mầu mà Van Gogh hay s?dụng), mầu hồng (nhóm kháng Helmintique, Santonin) hoặc thấy vật nh?li ti (với các chất nhóm kháng Cholinergique, thường bệnh nhân thấy không khó chịu)  hoặc ngược lại thấy vật to lớn.

Ảo giác do các độc chất khác
Lạm dụng một s?chất như  rượu, Méthylphénidate, nhóm Amphétamine, Chloral, có th?kèm ảo xúc cảm gíc như b?sâu b?bò trên da hoặc như có vết thương do b?cào xướt. Tác dụng hiệu qu?của Pimozide trong trường hợp này đã được báo cáo. Một vài chất dạng hít chất bay hơi có th?gây ra những cảm giác trong quan h?tình dục.

Hallucinations
N. Franck và F. Thibaut
Encyclopédie Médicale et Chirugie 37-120-A-10, 2003

Người dịch : BS Trần Duy Tâm BS CKI, Phó phòng KHTH Bệnh Viện Tâm Thần

The post ẢO GIÁC appeared first on Bệnh Viện Tâm Thần TP. HCM.

]]>
//3xdata.com/ao-giac/feed/ 0