ẢO GIÁC (PHẦN 2) – Bệnh Viện Tâm Thần TP. HCM //3xdata.com Thầy Thuốc Tận Tâm Sun, 10 Dec 2023 17:00:04 +0000 vi hourly 1 //wordpress.org/?v=4.7.5 ẢO GIÁC (PHẦN 2) – Bệnh Viện Tâm Thần TP. HCM //3xdata.com/ao-giac-phan-2/ //3xdata.com/ao-giac-phan-2/#respond Mon, 14 Aug 2017 10:24:35 +0000 //bv-rumit.rhcloud.com/?p=2497 TRIỆU CHỨNG HỌC ẢO GIÁC (tiếp theo) Ảo giác giác quan (ảo giác thật) Ảo th? Chúng có th?thô sơ (ánh sáng, mãng màu? hoặc phức tạp (đ?vật, khuôn mặt, cảnh vật?, chúng có th?nh?bé (hallucinations lilliputiennes) hoặc to lớn (hallucinations gullivériennes), chúng có th?toàn phần hoặc bán phần (ảo […]

The post ẢO GIÁC (PHẦN 2) appeared first on Bệnh Viện Tâm Thần TP. HCM.

]]>
TRIỆU CHỨNG HỌC ẢO GIÁC (tiếp theo)
Ảo giác giác quan (ảo giác thật)
Ảo th?
Chúng có th?thô sơ (ánh sáng, mãng màu? hoặc phức tạp (đ?vật, khuôn mặt, cảnh vật?, chúng có th?nh?bé (hallucinations lilliputiennes) hoặc to lớn (hallucinations gullivériennes), chúng có th?toàn phần hoặc bán phần (ảo th?bán manh). Khi ảo th?là những hình ảnh v?thú vật (zoopsies) mang tính cách đe dọa và thường gặp ?trong tình trạng lú lẫn do rượu, ảo giác này có một giá tr?chẩn đoán khá quan trọng nhất là khi chúng gặp trong một bối cảnh có rối loạn ý thức kiểu mê mộng.

Ảo th?có th?gặp trong tâm thần phân liệt, đặc biệt là trong một s?bối cảnh của nền văn hóa địa phương, tuy nhiên  thường gặp nhất là trong những trạng thái lú lẫn mê mộng tâm thần thực th? Các ảo th?thường nặng lên khi môi trường xung quanh thiếu ánh sáng và bệnh nhân nhắm mắt.

Ảo thính:
Chúng có th?thô sơ (tiếng rít, tiếng chuông? phức tạp (điệu nhạc, tiếng mưa rơi, tiếng chân đi? nhưng thường xuyên thấy nhất là ảo thính lời nói thường thấy trong tâm thần phân liệt.

Ảo thính thường có tính chất khó chịu (tiếng chửi, ?) chúng có th?lặp lại những suy nghĩ của bệnh nhân, phê bình hành vi, ra lệnh cho bệnh nhân. Bệnh nhân có th?nghe ?một bên tai hoặc c?hai tai, nghe vẳng t?xa hoặc nghe gần.

Khi bệnh nhân b?ảo thính ta thường xuyên thấy bệnh nhân có thái đ?lắng nghe, tr?lời một mình, có hành vi t?bảo v?chống lại ảo giác (nghe nhạc, nút hai l?tai, c?gắng tập trung làm việc?) có t?10 đến 40% bệnh nhân.

?một s?bệnh nhân có th?xuất hiện ảo thính trong khi có hội chứng cai rượu và nghiện rượu mãn tính (ảo giác do rượu Wernicke) nhất là những bệnh nhân lớn tuổi và b?thiểu dưỡng nặng, thường thấy ?trường hợp này là những ảo thính mang tính đe dọa có th?dẫn đến các hành vi bạo hành hoặc t?hủy. Chúng có th?kéo dài vài ngày, vài tháng và thậm chí mãn tính hóa.

Ảo khứu và ảo v?
Thường đó là những mùi v?k?l?và khó chịu, gây buồn ói. Trong những trường hợp trầm cảm sầu uất thường bệnh nhân nghe mùi thối rửa.

Ảo xúc:
Một s?tác gi?kinh điển như Régis phân biệt ảo xúc ch?động và th?động. Ao xúc ch?động thường hiếm ?trong loạn thần, người bệnh nhân cảm thấy có cơ th?một người, một con vật đụng chạm vào người h? Ao xúc ch?động thường ?ngoài da (cảm giác như phỏng, châm chích, ẩm ướt, kiến bò?. Những bệnh nhân b?ảo xúc thường có hành vi xua đuổi ảo giác (tránh đụng chạm, phủi, tìm cách nghiền nát các con vật bám trên da).

Ảo xúc thường gặp trong các trạng thái ng?độc (rượu, ma tuý?, chúng còn gặp ?trong tâm thần phân liệt và rối loạn cảm xúc. Cần thận trọng với những ảo xúc một bên trường diễn cần đánh giá xem có tổn thương vùng đồi th?hoặc vùng đính.

Ảo giác nội tạng:
Là những ảo giác phía bên trong nội tạng. Bệnh nhân có cảm giác cơ th?b?biến đổi (cảm giác trống rỗng, cảm giác bùng n? có vật bò trong cơ thể?), có khi khu trú ?một cơ quan thí d?như ?b?phận sinh dục (b?s?soạng, khoái cảm, cảm giác giao hợp? bệnh nhân s?tìm cách chống tr?như mang nịt, nút các đường vào cơ quan sinh dục?ta còn thấy có dạng hoang tưởng ph?định nội tạng như trong hội chứng được Cotard mô t?vào năm 1882.

Ảo giác vận động:
Được Séglas mô t? là những cảm giác không có thật v?vận động (rơi vào khoảng không, bay bổng?

•  ?Ảo giác tâm thần (ảo giác gi?
Mickea gọi đó là ảo giác không thật, Kahlbaum gọi đó là ảo giác không đối tượng hoặc trừu tượng. Kandinsky đã dùng t?ảo giác gi? Năm 1946 Baillarger đã định danh loại ảo giác này, là những ảo giác không được cảm nhận khách quan t?th?giới bên ngoài mà nằm trong nội tâm bệnh nhân, đó là những tiếng nói, tiếng thì thầm nội tâm. Người b?ảo giác nghe thấy những suy nghĩ của mình như được đến t?một người khác, h?có cảm giác b?đánh cắp, b?bộc l?suy nghĩ, b?cài đặt suy nghĩ, tư duy vang thành tiếng.

Ảo giác gi?thường xuyên thấy trong hội chứng tâm thần t?động của Clérambault mà trong hội chứng hoang tưởng b?chi phối.

•  ?Hội chứng tâm thần t?động
Được Clérambault quan sát và mô t?trong bệnh án t?năm 1909, công b?vào năm 1920.

•  ?Mê mộng
Régis vào đầu th?k?20 đã tách tình trạng mê mộng ra khỏi các ảo giác. Tình trạng mê mộng nằm giữa lú lẫn và hoang tưởng, làm cho bệnh nhân có cảm giác như sống trong giấc mơ và trạng thái nữa thức nữa ng? h?có cảm nhận sống lại một cách k?l?các hoạt động ngh?nghiệp và quen thuộc.
Trạng thái mê mộng thường thấy ?những bệnh nhân nghiện rượu đang trong giai đoạn cai rượu cấp tính,  chúng còn thấy ?trong những trường hợp có rối loạn chuyển hóa trong các bệnh lý v?nội tiết, thận, rối loạn điện giải?

SINH LÝ BỆNH HỌC ẢO GIÁC
NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM CÁC ẢO GIÁC LỜI NÓI
Ao giác lời nói là một rối loạn phức tạp và được nghiên cứu nhiều nhất. Quan sát thực nghiệm đã hướng các tác gi?đưa ra gi?thuyết các ảo giác lời nói liên quan đến chức năng phát âm. H?đã tìm kiếm những bất thường v?cấu trúc hoặc chức năng ?vùng Broca (phần dưới của hồi trán 3, có chức năng phát âm) và vùng Wernicke (phần sau của hồi thái dương 1, có chức năng hiểu lời nói).

•  ?Nghiên cứu giải phẩu bệnh học
Một s?các khảo sát t?thiết trên những bệnh nhân tâm thần phân liệt đã cho thấy một s?bất thường v?cấu trúc ?vùng trán và thái dương. Ơ những bệnh nhân này có s?gia tăng mật đ?các sợi thần kinh và teo v?não vùng trước trán, chúng được lý giải như h?qu?của một s?giảm thiểu s?nối dài h?trục và đuôi gai. Một nghiên cứu khác đã chứng minh rằng hồi thái dương lên của một s?bệnh nhân tâm thần phân liệt b?teo lại so với nhóm chứng.

Tuy nhiên những nghiên cứu theo hướng này lại không chứng minh được các bất thường v?cấu trúc trên có liên h?với những triệu chứng lâm sàng của những bệnh nhân này. Hơn nữa trên thực t?những bệnh nhân có tổn thương thực th?này lại rất hiếm có ảo giác lời nói: một nghiên cứu tập trung 412 trường hợp có u não đã được xác chẩn cho thấy ch?có 4/99 u vùng thái dương, 6/98 u vùng trán có ảo giác lời nói, chưa k?là các ảo giác này ch?xuất hiện một bên.

•  ?Nghiên cứu qua chẩn đoán hình ảnh hình thái học (imagerie morphologique)
Thông qua IRM ta có th?đo được kích thước của một vùng não. Các nghiên cứu theo hướng này cho những kết qu?trái ngược nhau v?s?giảm thiểu kích thước thùy thái dương với ảo giác trên lâm sàng.

Tóm lại thông qua nghiên cứu giải phẫu bệnh và chẩn đoán hình ảnh không th?khẳng định được các bất thường v?cấu trúc não với ảo giác lời nói.

•  ?Nghiên cứu v?điện sinh học
Các nghiên cứu nổi tiếng của Penfield và Perot đã cho thấy nếu ta kích thích điện ?các vùng thính giác sơ khai hai bên s?làm bệnh nhân nghe thấy những âm thanh thô sơ, còn nếu kích thích ?những vùng thính giác th?cấp s?gây ra những âm thanh phức tạp hơn, thậm chí tiếng nhạc và tiếng lời nói. Tuy nhiên trong mẫu nghiên cứu gồm có 1132 đối tượng (trong đó 520 kích thích ?vùng thái dương) ch?có 40 đối tượng là có ảo giác, và ngay c?khi có ảo giác lời nói đây cũng ch?là những ảo giác đơn giản, tiếng thì thầm không rõ hoặc la hét. Phức tạp nhất thì ch?phát lại được những câu nói đã được bệnh nhân nói trước đây. Thí d?như ch?có 5 đối tượng nghe thấy tiếng nói lặp lại 1 t? ra một lệnh đơn giản: “đúng, ra khỏi đây? đọc tên của đối tượng hoặc v?của h? Những kích thích này được thực hiện ?hai bên và phần trên của hồi thái dương 1 bên phải (3 trường hợp) bên trái (hai trường hợp). Các ảo giác cũng còn có th?có khi ta kích thích vùng cựa trước hoặc vùng hạnh nhân. Nói tóm lại dù đã chứng minh được kích thích điện có th?tạo ra các âm thanh nhưng cũng không đ?đ?giải thích các âm thanh phức tạp của những ảo giác lời nói được những bệnh nhân nghe thấy, tuy nhiên những nghiên cứu này đã góp phần hướng đến một phương pháp tr?liệu mới có th?giảm thiểu được tình trạng ảo giác trên bệnh nhân tâm thần phân liệt: đó là phương pháp kích thích điện xuyên s?(SMT) khi được s?dụng ?tần s?1 Hz.

Mặc khác người ta cũng có th?đặt ra gi?thuyết rằng các hiện tượng ảo giác có bản chất như một cơn động kinh chăng? Ý tưởng này đã được các tác gi?kinh điển như Tamburini và Séglas đ?xuất. T?đó một nghiên cứu khảo sát bằng cách ghi điện não đ?EEG liên tục trên 40 bệnh nhân tâm thần phân liệt, chúng cho thấy các hoạt động chậm và mũi nhọn ?vùng trán ?phân nữa bệnh nhân, tuy nhiên những bất thường này không gặp khi bệnh nhân có ảo giác mà ch?gặp khi bệnh nhân kích động hoặc có những hành vi định hình hoặc những hành vi bất thường khác. Mặc khác các bệnh nhân động kinh thái dương có những biểu hiện động kinh loại ảo giác liên quan đến những cơn phóng điện động kinh, tuy nhiên các biểu hiện ảo giác tương đối thô sơ và bao gồm nhiều giác quan hơn so với các bệnh nhân bị?tâm thần.

Những kết qu?này cho thấy những vùng tiếp nhận  âm thanh có một vai trò trong việc tạo ra các ảo giác lời nói, nhưng chúng không đ?giải thích tính phức tạp của các ảo giác. Cần nghĩ tới một khu vực não rộng lớn hơn có liên quan đến hiện tượng này.

•  ?Nghiên cứu v?kh?năng nghe của các bệnh nhân b?ảo giác
Trong hướng nghiên cứu này, người ta đánh giá quá trình x?lý thính giác ?các bệnh nhân. Collicut và Hemsley đã so sánh các k?năng nghe của một nhóm bệnh nhân tâm thần phân liệt với một nhóm bệnh nhân lo âu và với một nhóm người lớn tuổi. Kết qu?không cho thấy s?khác biệt v?k?năng nghe ?c?ba nhóm.

•  ?Nghiên cứu v?kh?năng nói thầm (activité subvocale) của các bệnh nhân ảo giác
Trên thực t?người ta quan sát thấy có một s?bệnh nhân ảo giác, trong thời điểm xuất hiện ảo giác những người này có một vài phát âm, hoặc nói cao giọng những t?phản ánh đúng nội dung ảo giác, vì vậy có th?nghĩ rằng những bệnh nhân này chính là tác gi?các ảo giác một cách vô thức.

Gould là người đầu tiên đã tìm cách ghi âm bằng cách đặt một microphone k?miệng một người bệnh đ?nhằm ghi âm lại những tiếng nói mà trong lúc bệnh nhân đang nghe thấy những ảo giác. Sau đó Green và Preston đã đặt 2 microphone ?hai bên thanh quản và đã nhận được một hoạt động thì thầm trong khi bệnh nhân này đang nghe thấy ảo giác. McGuigan cũng có một kết qu?tương t??một bệnh nhân khi ông ghi nhận những dao động điện cơ ?vùng cằm và biên đ?hô hấp khi bệnh nhân này có ảo giác, những thay đổi điện cơ này xuất hiện vài giây trước khi có hiện tượng ảo giác. Inouye và Shimizu đã có một kết qu?tương t?khi ghi lại điện cơ của các cơ phát âm ở?chính bệnh nhân ảo giác. Sau cùng Bick và Kinsbourne đã ghi nhận s?duy trì tư th?miệng m??18 bệnh nhân tâm thần phân liệt khi đang có ảo giác lời nói những người này có kèm theo động tác nhắm mắt và nắm chặt tay là những thao tác có tác dụng cản tr?các hoạt động thanh quản. Tuy nhiên các nghiên cứu cho thấy các hoạt động nói thầm không th?diễn  ra liên tục, khi bệnh nhân đang súc miệng, nuốt hoặc hát s?cắt đi các ảo giác. Mặc khác các nghiên cứu cho thấy không có bằng chứng các hoạt động điện cơ  trên được duy trì liên tục ?các bệnh nhân có ảo giác lời nói.

•  ?Thăm dò hình ảnh chức năng (imagerie fonctionnelle) của ảo giác lời nói, của ngôn ng?nội tâm và của tái tạo ngôn ng?/p>

Nghiên cứu mối liên h?giữa các triệu chứng dương tính và lưu lượng máu não trong từng vùng(DSCr) lúc ngh?ngơi

Liddle đã nghiên cứu PETscan giữa lưu lượng máu não từng vùng (Débits sanguins cérébraux régionaux DSCr) ?30 bệnh nhân tâm thần phân liệt trong lúc ngh?ngơi, với 3 hội chứng: HC âm tính, HC vô t?chức, HC dương tính (hoang tưởng, ảo giác). Nghiên cứu nhận thấy rằng HC dương tính t?l?thuận với hoạt động của vùng bán hải mã T (khu vực 27 và 30), vùng lưng của th?vân T và t?l?nghịch với hoạt động của vùng v?cựa sau P, t?đó khiến người ta nghĩ đến vùng thái dương chịu trách nhiệm trong việc tạo ra HC dương tính (trong đó có ảo giác lời nói).

Nghiên cứu v?gi?thuyết rối loạn kết nối vùng v?não.
Nghiên cứu này dựa trên gi?thuyết ngôn ng?nội tâm, bệnh nhân không nhận thức chính tiếng nói ảo giác là ngôn ngữ?nội tâm của mình. Các tác gi?Frith và McGuire đã đưa ra ý tưởng chính là đã có một s?rối loạn kết nối vùng trán-thái dương, lúc đó tiếng nói nội tâm (xuất phát từ?vùng Broca) s?“bị?xem như  đến t?ngoại lai và “được?võ não thính giác x?lý. Nh?vào các k?thuật chẩn đoán hình ảnh chức năng, các tác gi?này đã cho thấy vùng trán dưới T được hoạt hóa không ch?lúc bệnh nhân nói, lúc nghĩ thầm mà k?c?lúc có ảo thanh lời nói. H?đã thực hiện một loạt thực nghiệm đ?chứng minh ý tưởng trên.

Thực nghiệm PETscan trên s?kết nối vùng trán- thái dương trái
Frith đã so sánh bằng PETscan với CO2 có đánh dấu bằng đồng v?O15 giữa 18 bệnh nhân tâm thần phân liệt và 6 người khỏe mạnh khi thực hiện 3 bài tập v?ngôn ng?

bài tập 1 cho đọc các t?, một bài tập 2 vừa đọc vừa phân loại t?và bài tập 3 đáp lặp lại các t? ?c?hai nhóm những vùng não sau s?được kích hoạt nhiều ?bài tập 1 hơn so với bài 3: vùng v?não trước trán lưng bên trái, vùng cựa sau và vùng đồi th? bài tập th?hai có kết qu?trung gian giữa 2 bài tập trên. Tuy nhiên, nh?qua PET, nhóm nghiên cứu nhận thấy có một vùng não hoạt động khác biệt giữa nhóm TTPL và nhóm bình thường, đó là hồi thái dương trên T. ?người bình thường, vùng này kích hoạt mạnh ?bài tập 3 hơn bài tập 1, trong khi ?nhóm TTPL thì không thấy khác biệt giữa 2 bài tập này. Điều này được giải thích như sau: bình thường thì khi một người nói, vùng này s?được ức ch?vì không cần thiết phải tiếp nhận chính lời nói t?thân. ?bệnh nhân TTPL, do có rối loạn kết nối v?não nên khi người bệnh nói, vùng vẫn hoạt hóa đ?tiếp nhận lời nói trên như đến t?“bên ngoài? Như vậy hình thành gi?thuyết v?s?rối loạn kết nối đã khiến cho vùng não tiếp nhận không “nhận ra?âm thanh nhận được chính là tiếng nói t?thân, và đây là cơ s?giải thích ảo giác lời nói (các loại ảo giác ?các bệnh khác s?có cơ ch?riêng của chúng). Một s?tác gi?khác còn đi xa hơn khi đưa ra gi?thuyết là nếu ta phát hiện s?rối loạn kết nối trán-thái dương trên thì chúng có giá tr?tiên báo cho TTPL. Thí d?như nhóm nghiên cứu của Spence, h?đã khảo sát PET với nước có đánh dấu đồng v?O15  trên 10 người bình thường, 10 bệnh nhân TTPL và 10 người có nguy cơ TTPL (không có biểu hiện bệnh nhưng có thân nhân trực h?b?TTPL). Tuy nhiên kết qu?không cho thấy s?khác biệt trên nhóm nguy cơ.

BS Trần Duy Tâm, BS. CKI. Phó phòng K?Hoạch Tổng Hợp

The post ẢO GIÁC (PHẦN 2) appeared first on Bệnh Viện Tâm Thần TP. HCM.

]]>
//3xdata.com/ao-giac-phan-2/feed/ 0