THAI NGHÉN & THUỐC CHỐNG TRẦM CẢM SSRI

492

Hai nghiên cứu cho thấy dùng thuốc chống trầm cảm ở người mẹ mang thai có thể có tác dụng có hại cho trẻ sau sanh, nhưng quyết định có tiếp tục dùng thuốc chống trầm cảm hay không trong thời gian mang thai còn là một sự thách thức.

Trong một nghiên cứu mới trên những người mang thai dùng thuốc chống trầm cảm: khoảng 1/3 trẻ sanh ra có các triệu chứng của hội chứng  cai ở trẻ sơ sinh (neonatal abstinence syndrome: NAS),  bao gồm run rẩy, rối loạn giấc ngủ, có các vấn đề về tiêu hoá dạ dày ruột, và tăng trương lực cơ.

Một số  thuốc sau đây thường có liên quan với NAS:

1. Các chế phẩm thuốc phiện và thuốc gây ngủ: codeine, fentanyl, heroin và methadone, meperidine, morphine, pentazocine.
2. Các thuốc khác: Barbiturates, caffeine, chlordizepoxide, cocaine, dizepam và lorazepam, diphenhydramine, ethanol, marijuana, nicotine, phencyclidine.

Biểu hiện của NAS liên quan đến thời gian bán huỷ của các loại thuốc với các triệu chứng rối loạn hệ thần kinh trung ương như khóc lóc lè nhè, cựa quậy không yên, tăng phản xạ, run rẩy, tăng trương lực cơ, giật cơ và cơn co giật toàn thể hoá. Về chuyển hoá, vận mạch và rối loạn hô hấp gồm ra mồ hôi, sốt, sổ mũi , tăng nhịp thở (hơn 60 lần / phút) không co kéo,… và các biểu hiện rối loạn tiêu hoá dạ dày ruột khác như: bú nhiều, nôn ọc sữa, tiêu chảy.

Theo một báo cáo đăng trong Archives of Pediatric and Adolescent Medecine  tháng 2,  phần lớn các triệu chứng trên xảy ra trong 48 giờ đầu sau sanh nhưng hậu quả lâu dài của NAS nếu có cũng không được nhân ra.

Các nhà nghiên cứu ở  Schneider Children’s Medical  Center ( Israel) cho biết trong số 120 trẻ sơ sinh ở Trung tâm Y khoa trẻ em Rabin từ  1/2002 đến 8/2004  có 1/2  trẻ sinh ra ở những người mẹ đã dùng  SSRIs hoặc trong suốt thời kỳ mang thai hoặc trong 3 tháng cuối thai kỳ. Trong số các bà mẹ này, 37 người dùng paroxetine, 12 người dùng fluoxetine, 8 người dùng citalopram, 2 người dùng venlafaxine và 1 người dùng sertraline. 60 bà mẹ của số trẻ còn lại không dùng SSRIs trong thời gian mang thai. Theo dõi đánh giá sức khoẻ trẻ với các test huyết học, monitoring kiểm tra chức năng hoạt động tim phổi và thân nhiệt, đồng thời sử dụng Finnegan Scale lượng giá NAS.
Kết quả: 60 trẻ sinh ra từ  người mẹ dùng SSRIs khi còn mang thai 30 % (18 trường hợp) có các triệu chứng của NAS, trong nhóm chứng không có trẻ nào; 8 /18 trẻ có các triệu chứng NAS nặng, trong số này có 6 trẻ là con các bà mẹ dùng paroxetine khi còn mang thai; 10/18 trường hợp còn lại có các triệu chứng NAS ở mức độ trung bình.
Ngoài ra có 3 trẻ ở những bà mẹ dùng SSRIs trong suốt thời kỳ mang thai bị dị tật bẩm sinh: thông liên thất, thận ứ nước và hở chẻ vòm họng. Có 1 trẻ thận ứ nước trong nhóm chứng.

Theo Gil Klinger, chuyên gia về trẻ sơ sinh ở Trung tâm Schneider Children’s Medical  nhận xét trên Psychiatric News phần lớn những triệu chứng vừa phải của NAS  ở trẻ sau sanh giảm dần trong  vài ngày, có “ hai trường hợp nặng nhất có cơn co giật không cần can thiệp”. Tác giả cho biết dù ngay sau sanh không có triệu chứng đe doạ cuộc sống nhưng hậu quả lâu dài của các SSRIs ở trẻ mới sanh cũng không rõ. Klinger thừa nhận “ thuốc chống trầm cảm cũng gây ra nguy cơ cho phụ nữ mang thai và thai nhi, và nguy cơ ấy có thể cũng kiểm soát được – chúng tôi không khuyên dừng điều trị SSRIs trong thời gian mang thai; tuy nhiên, đôi khi SSRIs được chỉ định cho bệnh nhân ở mức độ “rất cần vừa phải”, và trong những trường hợp này tỷ số nguy cơ – lợi ích có thể không ủng hộ chỉ định dùng thuốc chống trầm cảm”.

Một nghiên cứu trường hợp – nhóm chứng khác  tháng Giêng năm nay tiết lộ một nguy cơ liên quan bị xem nhẹ, nguy cơ này  không thể xem thường đến sức khoẻ của trẻ mới sinh ở người mẹ dùng thuốc chống trầm cảm trong thời gian  cuối của thai kỳ. Đó là nguy cơ  ở các bà mẹ dùng thuốc SSRIs sau 20 tuần cấn thai hình như có số trẻ mới sinh bị tăng huyết áp động mạch phổi nhiều hơn 6 lần so với trẻ mới sinh ở các bà mẹ không dùng thuốc trầm cảm ở giai đoạn cuối của thai kỳ. Mẫu nghiên cứu này gồm  377 phụ nữ có trẻ mới sanh bị tăng huyết áp động mạch phổi và 836 phụ nữ trong nhóm chứng và nghiên cứu sức khỏe của những đứa trẻ mới sinh từ  1998 đến 2003 tại  gần 100 trung tâm y khoa ở Boston, Philadelphia, San Diego, và Toronto nhằm thu thập thông tin y khoa, tiền sử sản khoa và quá trình sử dụng thuốc chống trầm cảm từ các bà mẹ, đánh giá tình trạng tăng huyết áp động mạch phổi ở trẻ mới sanh. Kết quả có 14 trẻ  tăng huyết áp động mạch phổi ở các bà mẹ dùng một loại SSRI trong giai đoạn cuối thai kỳ, trong khi đó chỉ 6 trẻ ở các bà mẹ nhóm chứng cũng được dùng SSRIs.

Tuy nhiên khi phân tích sự kết hợp giữa SSRI ở bất cứ giai đoạn thai kỳ nào và tăng huyết áp động mạch phổi ở trẻ mới sanh lại không thấy nguy cơ nào. Chỉ có những bà mẹ dùng SSRIs sau cấn thai 20 tuần lễ có liên quan một cách có ý nghĩavới tăng huyết áp động mạch phổi.

Theo tờ New England Journal of Medicine, số 9 tháng 2: số trẻ mới sanh này “sanh đủ ngày hoặc là thiếu ít ngày không có kèm dị tật bẩm sinh sau sanh có suy hô hấp cấp đòi hỏi thở oxy”.

Tiến sĩ Christina Chambers, Phó giáo sư nhi khoa Trường y khoa San Diego thuộc đại học California nhấn mạnh rằng nguy cơ ảnh hưởng tương đối thấp ở trẻ mới sanh – chỉ có 6 đến 12 /1000 bà mẹ sử dụng SSRIs vào giai đoạn cuối của thai kỳ có con mới sanh ra bị tăng huyết áp động mạch phổi. Tác giả viết trên tờ Psychiatric New “trẻ sanh ra ở 99% bà mẹ dùng SSRIs trong giai đoạn cuối thai kỳ không bị tăng huyết áp động mạch phổi”.

Nhận định nghiên cứu trên không thể chứng minh nguyên nhân phối hợp giữa nguy cơ do sử dụng SSRIs ở sản phụ và tăng huyết áp động mạch phổi ở trẻ mới sanh, tiến sĩ Chambers lưu ý một tác động của SSRIs là giảm sản xuất chất gây giãn mạch nitric oxide “ SSRIs cũng kích phát nồng độ serotonin , một đặc trưng co mạch máu”
Tiến sĩ Chambers cũng lưu ý mặc dù nhận định có nguy cơ tăng huyết áp động mạch phổi ở những trẻ mới sanh từ sản phụ dùng SSRIs  cuối thai kỳ và kết quả này có thể là yếu tố giúp các bà mẹ phải xem xét khi được chỉ định dùng SSRIs trong suốt thai kỳ.

Thực tế tại Khoa khám bệnh I đã có người bệnh chủ động cho biết “điều trị trầm cảm cho khỏi rồi mới sanh con tiếp” hoặc chủ động hỏi “dùng thuốc trầm cảm có  ảnh hưởng cho em bé hay không” khi cấn thai. Đây là một trong những vấn đề cần được tham khảo từ các nghiên cứu trên thế giới nhiều hơn nữa.

Theo:   1. Psychiatric News April 7, 2006. Volume 41, number 7, page 25. 2006 American Psychiatric Association. 
2. Neonatal Abstinence Syndrome October 27, 2004 Jaques Belik, MD, Professor of Pediatrics, University of Toronto; Consulting Staff, Department of Pediatrics, Division of Neonatology, Hospital for Sick Children .

BS. Phạm Văn Trụ, Phó giám đốc, BVTT