Kết quả rối loạn thần kinh và tâm thần trong 6 tháng ở 236.379 người sống sót sau nhiễm COVID-19: một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu sử dụng hồ sơ bệnh án điện tử

521

Kết quả rối loạn thần kinh và tâm thần trong 6 tháng ở 236.379 người sống sót sau nhiễm COVID-19: một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu sử dụng hồ sơ bệnh án điện tử

Maxime Taquet, John R Geddes, Masud Husain, Sierra Luciano, Paul J Harrison

Ngày 06 Tháng 04 năm 2021, Lancet Psychiatry 2021

 

Người dịch: BS Châu Chí Đạt, BS Trần Thị Minh Ngọc

 

TÓM LƯỢC NGHIÊN CỨU

Bối cảnh

Các tác động lên thần kinh và tâm thần của COVID-19 đã được báo cáo, nhưng cần thêm dữ liệu để có thể đánh giá đầy đủ ảnh hưởng của COVID-19 đối với sức khỏe bộ não. Mục tiêu của chúng tôi nhằm cung cấp các ước tính mạnh mẽ về tỷ lệ mắc bệnh và nguy cơ tương đối của các chẩn đoán thần kinh và tâm thần ở bệnh nhân trong 6 tháng sau chẩn đoán mắc COVID-19.

Phương pháp nghiên cứu:

Đối với nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu này, chúng tôi đã sử dụng dữ liệu từ mạng lưới hồ sơ bệnh án điện tử TriNetX (tại 62 tổ chức chăm sóc sức khỏe với hơn 81 triệu lượt bệnh nhân, chủ yếu ở Mỹ). Nhóm đoàn hệ chính của chúng tôi bao gồm những bệnh nhân có chẩn đoán COVID-19; một nhóm đối chứng bao gồm các bệnh nhân được chẩn đoán mắc bệnh cúm, và nhóm đối chứng còn lại soát bao gồm những bệnh nhân được chẩn đoán bất kỳ bệnh nhiễm trùng đường hô hấp nào kể cả cúm trong cùng thời kỳ.

Bệnh nhân có chẩn đoán COVID-19 hoặc xét nghiệm dương tính với SARS-CoV-2 đã bị loại khỏi nhóm đối chứng. Tất cả nhóm bao gồm những bệnh nhân trên 10 tuổi nhiễm COVID-19 vào hoặc sau ngày 20 tháng 1 năm 2020 và những người vẫn còn sống vào ngày 13 tháng 12 năm 2020. Chúng tôi ước tính tỷ lệ mắc 14 rối loạn bệnh lý thần kinh và tâm thần trong 6 tháng sau khi chẩn đoán xác định COVID-19: xuất huyết nội sọ; đột quỵ do thiếu máu cục bộ; bệnh parkinson; hội chứng Guillain-Barré; rối loạn về dây thần kinh, rễ thần kinh và đám rối thần kinh; bệnh cơ và khớp nối thần kinh; viêm não; sa sút trí tuệ; rối loạn loạn thần, khí sắc và lo âu (đồng mắc và riêng biệt); rối loạn sử dụng chất gây nghiện; và mất ngủ.

Sử dụng mô hình Cox, chúng tôi đã so sánh tỷ lệ mắc bệnh với những người trong nhóm đoàn hệ phù hợp với điểm số xu hướng của bệnh nhân bị cúm hoặc các bệnh khác nhiễm trùng đường hô hấp. Chúng tôi đã điều tra xem những ước tính này bị ảnh hưởng như thế nào bởi mức độ nghiêm trọng của COVID-19 như: nhập viện, nhập khoa hồi sức tích cực (ITU) và bệnh não (mê sảng và các rối loạn liên quan). Chúng tôi đánh giá mức độ chắc chắn của sự khác biệt về kết quả giữa các nhóm bằng cách lặp lại phân tích trong các các tình huống. Để cung cấp điểm chuẩn cho tỷ lệ mắc và nguy cơ di chứng thần kinh và tâm thần, chúng tôi đã so sánh nhóm đoàn hệ chính của chúng tôi với bốn nhóm bệnh nhân được chẩn đoán trong cùng khoảng thời gian với các sự kiện chỉ số bổ sung: nhiễm trùng da, sỏi niệu, gãy xương lớn và thuyên tắc phổi.

Kết quả

Trong số 236.379 bệnh nhân được chẩn đoán mắc COVID-19, tỷ lệ ước tính được chẩn đoán mắc bệnh thần kinh hoặc tâm thần trong 6 tháng tiếp theo là 33,62%, với 12,84% là được chẩn đoán lần đầu. Đối với những bệnh nhân đã vào ITU, tỷ lệ chẩn đoán ước tính là 46,42% và 25,79% là được chẩn đoán lần đầu. Đối với các chẩn đoán riêng lẻ của kết quả nghiên cứu, toàn bộ nhóm COVID-19 có tỷ lệ mắc ước tính xuất huyết nội sọ là 0,56%, đột quỵ do thiếu máu cục bộ là 2,10%, bệnh parkinson là  0,11%, sa sút trí tuệ là 0,67%,  rối loạn lo âu là 17,39%, và rối loạn loạn thần là 1,40%. Trong nhóm nhập viện ITU, tỷ lệ ước tính xuất huyết nội sọ là 2,66%, đột quỵ do thiếu máu cục bộ là 6,92%, bệnh parkinson  là 0,26%, sa sút trí tuệ là 1,74%, rối loạn lo âu là 19,15%, và rối loạn tâm thần là 2,77%. Hầu hết các nhóm chẩn đoán ở những bệnh nhân có COVID-19 phổ biến hơn so với những người bị cúm và những người có nhiễm trùng đường hô hấp khác. Đối với những ca mắc mới, tỷ lệ nguy hiểm (Hazard ratio) cao hơn ở những bệnh nhân có COVID-19 nặng hơn. Kết quả vững chắc với nhiều phân tích độ nhạy khác nhau và đối sánh so với bốn sự kiện sức khỏe của chỉ mục bổ sung.

Diễn dịch

Nghiên cứu của chúng tôi cung cấp bằng chứng quan trọng về tỷ lệ mắc bệnh thần kinh và tâm thần trong 6 tháng sau khi nhiễm COVID-19. Rủi ro cao nhất, nhưng không giới hạn ở những bệnh nhân bị COVID-19 nặng. Thông tin này có thể giúp lập kế hoạch dịch vụ và xác định các ưu tiên nghiên cứu. Các thiết kế nghiên cứu bổ sung, bao gồm nghiên cứu đoàn hệ theo thời gian, cần thiết để chứng thực và giải thích những phát hiện này.

Chia sẻ